Dân-số-ký, bài 04

Dân-số-ký 7 – 9

Đây là phần ghi chép các diễn biến tiếp theo lễ cung hiến Đền Tạm (Xuất Ai-cập 40) vào ngày một tháng Giêng của năm thứ nhì ở hoang mạc Si-na-i, sau khi Israel ra khỏi xứ Ai-cập.

Sau khi Môi-se đã xức dầu và biệt riêng ra thánh bàn thờ và tất cả các vật dụng cho bàn thờ (7:1), thì các trưởng tộc lãnh đạo mười hai chi tộc Israel đã đem lễ vật của họ dâng cho Đức Giê-hô-va để sử dụng vào việc phục vụ tại Đền Tạm, và sự di chuyển các vật nặng của Đền Tạm (2–5).

Có vài sự giải nghĩa khác nhau về sáu cỗ xe kiệu (3). Người thì cho rằng đó là loại xe có hai bánh do bò kéo để chở đồ nặng. Nhưng nhiều người khác thì giải nghĩa nó là loại xe có càng trượt trên mặt đất vì địa thế của hoang mạc không bằng phẳng hay bị cát lún bánh xe sẽ khó lăn.

Dù là xe có bánh hay càng trượt thì đồ đạc trên xe vẫn phải được che kín để bảo vệ các vật liệu của Đền Tạm.

Đức Giê-hô-va phải phán bảo thì Môi-se mới dám tiếp nhận lễ vật xe và bò kéo rồi giao cho người Lê-vi (4–6).

Vì Lều Hội-Kiến và các tấm màn nhẹ hơn các tấm vách, trụ và các lỗ trụ, nên chi tộc Ghẹt-sôn chỉ được giao cho hai cỗ xe và bốn con bò đực; còn chi tộc Mê-ra-ri phải chuyển vận phần nặng nề hơn, nên được giao cho bốn cỗ xe và tám con bò đực (7–8). Riêng chi tộc Kê-hát phải gánh vác các vật thánh trên vai nên không được giao cho cỗ xe hoặc con bò nào cả (9).

Cũng trong ngày bàn thờ được xức dầu, Môi-se được lệnh truyền cho những người lãnh đạo luân phiên mỗi ngày một người, đem lễ vật tới trong dịp cung hiến bàn thờ (10–11).

Mười hai trưởng tộc đều dâng giống nhau là mỗi người một dĩa bằng bạc nặng 130 shekels, một cái chậu bạc nặng 70 shekels, cả hai đều đựng đầy bột lọc nhồi dầu, một cái chén vàng nặng 10 shekels đựng đầy thuốc thơm, 1 bò đực tơ, 1 chiên đực, 1 chiên con 1 tuổi, 1 dê đực, 2 bò đực, 5 dê đực, và 5 chiên con 1 tuổi (12–83).

Trọng lượng tổng cộng của mười hai dĩa bạc và mười hai chậu bạc là 1,400 shekels, tổng trọng lượng của mười hai cái chén vàng là 120 shekels (84–86).

Tổng số thú vật dùng để làm tế lễ thiêu là mười hai con bò đực tơ, mười hai con chiên đực; mười hai chiên con một tuổi cùng với tế lễ chay và mười hai con dê đực làm tế lễ chuộc tội (87); còn có thêm hai mươi bốn con bò đực, sáu mươi con chiên đực, sáu mươi con dê đực, và sáu mươi chiên con một tuổi làm tế lễ bình an dâng về việc cung hiến bàn thờ, sau khi bàn thờ được xức dầu (88).

Với lượng huyết của số con thú làm tế lễ, để Đức Chúa Trời chí thánh có thể lưu lại giữa trại quân, chứng tỏ cho chúng ta thấy sự thánh khiết của Ngài vượt rất xa tầm hiểu biết của loài người.

Môi-se được đặc ân nghe tiếng Đức Chúa Trời phán với ông, hơn hẳn mọi tiên tri khác (Dân-số 12:5–8), khi ông vào gian chí thánh trò chuyện với Ngài giữa hai chêrubim xoè cánh che phủ trên nắp thi ân (89).

Chân đèn bảy ngọn bằng vàng được đặt dựa vào vách phía Nam của Đền Tạm. Mỗi bên thân đèn có ba nhánh mọc từ thân, cộng với một ngọn ngay chính giữa, làm thành chân đèn bảy ngọn. Vì thế đèn đối diện với bàn trưng bày bánh cung hiến đặt ở vách phía Bắc của Đền Tạm.

Mỗi cái đèn đặt trên các nhánh đều có thể đặt xoay ngọn ra phía trước chân đèn; cho nên, Đức Chúa Trời truyền cho A-rôn phải sắp xếp chân đèn sao cho bảy ngọn đèn chiếu sáng phía trước, để toàn thể gian thánh đều được chiếu sáng (8:1–4). Đây là cách sắp xếp chân đèn hợp lý và hiệu quả nhất.

Dù Môi-se đã thực hiện nghi thức phong cho A-rôn và các con trai chức tế lễ phục vụ ở Đền Tạm rồi, nhưng về phần người Lê-vi, dù đã thuộc về Đức Giê-hô-va, vẫn chưa được thanh tẩy để đủ điều kiện vào phụ giúp các công việc tế lễ.

Vì thế, Đức Chúa Trời bảo Môi-se “Hãy biệt riêng người Lê-vi khỏi dân Israel và làm lễ thanh tẩy họ” (8:5–6); rồi Ngài chỉ dẫn cho Môi-se phải làm gì để thanh tẩy (8:7–13).

Có lẽ “nước thanh tẩy” là nước chứa trong bồn rửa ở cửa Lều Hội-Kiến; cũng có thể là nước của bồn rửa có pha tro của xác con bò cái tơ màu đỏ bị thiêu (Dân-số 19:9), vì là nước tẩy uế.

Người Lê-vi còn phải cạo hết lông trên thân thể, giống nghi lễ thanh tẩy người bị phung hủi (Lê-vi 14:9), giặt quần áo và dọn mình cho thanh sạch (8:7), biểu tượng tiêu trừ sự ô uế.

Dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội cho dân chúng, nhưng tế lễ chuộc tội cho thầy tế lễ thượng phẩm và cho toàn hội chúng là con bò đực (8:8). Trong dịp thanh tẩy và trình diện người Lê-vi thì hai con bò đực sẽ dùng làm tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu (8:12).

Mặc dù toàn hội chúng Israel đều sẽ hội họp trước Lều Hội-Kiến để biệt riêng người Lê-vi phục vụ Đức Giê-hô-va, nhưng toàn thể hội chúng không thể đặt tay trên những người Lê-vi được, mà chỉ những người đại diện cho “dân Israel” sẽ đặt tay trên các đại diện của người Lê-vi mà thôi (8:9–10);

Tức là các trưởng tộc Israel sẽ đặt tay lên các trưởng gia tộc người Lê-vi để thay mặt mọi con đầu lòng chuyển trách nhiệm phụ giúp công việc ở Đền Tạm cho tám ngàn năm trăm tám mươi người Lê-vi (Lê-vi-ký 4:48), là những người trong chi tộc Lê-vi đủ sức khoẻ để phục vụ.

Sau khi các đại diện của người Lê-vi đặt tay trên đầu hai con bò đực và dâng chúng làm tế lễ rồi, thì những người Lê-vi sẽ đến đứng trước mặt A-rôn và hai con trai, để các thầy tế lễ dâng họ “như một tế lễ đưa qua đưa lại cho Đức Giê-hô-va” (8:11–13).

Nghi lễ ấy nhằm biệt riêng người Lê-vi cho Đức Chúa Trời để phục vụ tại Lều Hội-Kiến, vì họ đã được chọn thay thế cho mọi con đầu lòng của Israel, những người được Đức Chúa Trời chuộc trong ngày mọi con đầu lòng tại Ai -cập bị hành hại (8:14–18).

Sự thanh tẩy phải thực hiện để người Lê-vi không chết khi phục vụ gần nơi thánh. “Vậy, Môi-se, A-rôn và cả hội chúng Israel làm cho người Lê-vi mọi điều Đức Giê-hô -va đã phán dặn Môi-se” (8:19–22).

Từ ngày đó, mọi người Lê-vi từ hai mươi lăm tuổi đều phải phục vụ ở Lều Hội-Kiến; khi họ tới năm mươi tuổi thì thôi đảm trách công việc (8:23–26).

Tháng Giêng của năm thứ nhì, Israel tổ chức lễ Vượt Qua tại hoang mạc Si-na-i, tức là từ tối ngày mười bốn thì họ ăn lễ Vượt Qua trong hoang mạc (9:1–5).

Nhưng có vài người bị kể là ô uế vì có thân nhân bị chết nên không được dự lễ. Họ khiếu nại với Môi-se. Môi-se cầu hỏi Chúa thì Ngài phán: “Hãy bảo dân Israel rằng, ‘khi một người nào trong anh em hay con cháu anh em bị ô uế bởi xác chết hoặc bận đi xa, thì họ vẫn phải giữ lễ Vượt Qua cho Đức Giê-hô-va’… Họ phải giữ theo mọi luật lệ về lễ Vượt Qua.

Người tinh sạch và không đi xa mà không dự lễ sẽ bị khai trừ khỏi dân tộc mình. Người ngoại quốc kiều ngụ giữa Israel muốn dự lễ Vượt Qua thì phải theo tất cả quy định và luật lệ về lễ ấy (9:6–14). Luật ấy áp dụng chung cho cả ngoại kiều lẫn người Israel sinh ra trong xứ.

Ngày dân Isarel ra khỏi Ai-cập thì có một trụ mây dẫn đường, ban đêm lại là trụ lửa soi sáng (Xuất Ai-cập 13:20–22).

Trong ngày khánh thành Đền Tạm thì trụ mây từ đỉnh núi Si-nai ngự xuống bao phủ Lều Hội-Kiến và vinh quang của Đức Giêhôva đầy dẫy Đền Tạm; đến nỗi Môi-se không thể vào Lều Hội-Kiến vì đám mây bao phủ trên Đền; vinh quang của Đức Giêhôva đầy dẫy Đền Tạm (Xuất Ai-cập 40:34–35).

Bây giờ người ta mô tả rõ hơn về đám mây bao phủ Đền Tạm từ chiều tối đến sáng là giống như vầng lửa ở trên Đền Tạm; nhưng ban ngày là đám mây che phủ (9:15–16).

Mỗi khi đám mây cất lên khỏi Lều thì dân Israel ra đi; nơi nào đám mây dừng lại thì dân Israel đóng trại ở đó. Dân Israel ra đi theo lệnh của Đức Giêhôva và đóng trại theo lệnh của Đức Giêhôva” (9:17–18).

Dù đám mây chỉ dừng lại một đêm hay ngự trên Đền Tạm cả tháng hoặc lâu hơn nữa, thì Israel cứ ra đi hay hạ trại theo sự di chuyển của đám mây (9:19–23).

Trong lịch sử loài người, không một dân tộc nào được vinh hạnh như Israel. Vì họ có một tổ phụ biết yêu mến và kính sợ Đức Chúa Trời. Cho nên, dù họ có lắm trò phản nghịch, trụ mây và trụ lửa vẫn kiên nhẫn che phủ ban ngày hoặc soi sáng ban đêm.

Con dân Chúa thời nay vẫn được Ngài ở gần bên cả ngày lẫn đêm. Nếu tín hữu nào nhận biết rõ điều đó thì sẽ rất an tâm vui mừng vì thấy Chúa đi trước dẫn dường cho mình, rồi dừng lại nơi nào Ngài định cho ta được nghỉ ngơi.

Hình ảnh và sự dẫn dắt của đám mây nói về sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh cho chúng ta bây giờ. Dù chúng ta không trông thấy sự hướng dẫn của Ngài bằng mắt thể chất, nhưng tâm linh nào vâng phục Đức Thánh Linh đều có thể nhận ra sự hướng dẫn rất rõ ràng và sáng suốt của Ngài.

Dansoky04.docx
Rev Dr. CTB