Vấn Đề Hôn Nhân của Tín Hữu

1Côrinhtô 7:1–11

Phần nầy của thư là những câu Phaolô trả lời các câu hỏi của tín hữu tại Côrinhtô về các vấn đề liên quan đến hôn nhân của tín hữu (1).  Người hầu việc Chúa phải có tri thức để trả lời những thắc mắc của anh chị em tín hữu trong Hội Thánh. Trong bài học trước,  Phaolô bảo tín hữu phải cảnh giác về tội gian dâm; ở phần nầy thì ông đưa ra vài chỉ dẫn về vấn đề hôn nhân; hôn nhân là một sự kết hợp do Đức Chúa Trời sắp đặt cho loài người để chúng ta tìm được cách thức đáp ứng nhu cầu mãnh liệt về hạnh phúc của tình yêu, khoái cảm xác thịt, và sinh sản con cái, tức là bông trái của tình yêu nam nữ.  Nhưng ngay câu trả lời đầu tiên Phaolô khuyên “đàn ông không động đến đàn bà là hơn.”  Chủ trương độc thân trong giáo hội công giáo Lamã đối với các tu sĩ do suy diễn từ câu nầy mà ra.  Nhưng Phaolô giải thích tiếp theo liền là “..để tránh gian dâm, người nam nên lấy vợ, người nữ nên lấy chồng” (2).

Nếu người đọc hiểu câu 1 theo sự suy diễn của giáo hội Lamã thì hẳn phần còn lại trong lý lẽ của Phaolô sẽ trở thành mâu thuẫn. Thư nầy được viết vào lúc Hội Thánh đang có nguy cơ bị nhà cầm quyền bách hại, và mọi tín hữu–kể cả Phaolô–đều tin ngày Chúa trở lại gần kề.  Vì vậy, nếp sống độc thân có lợi thế hơn nhiều so với những người nặng gánh gia đình; miễn là tín hữu được Chúa kêu gọi sống độc thân.  Ý Phaolô muốn nói rằng tín hữu đừng tạo dịp cho nhục dục có môi trường phát tác khi đàn ông cứ tơ tưởng sắc đẹp của đàn bà và muốn chiếm hữu họ.  Ông nhắc họ rằng hôn nhân tạo nên sự thoả mãn, đáp ứng nồng ấm nhất giữa hai người yêu nhau, là sự sắp đặt khôn ngoan của Chúa cho con cái Ngài để họ tránh khỏi sự gian dâm. Miễn là những ai bước vào hôn nhân biết nhu cầu khoái cảm xác thịt của họ chỉ giới hạn với người phối ngẫu của mình.

Vì Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người với các nhu cầu về tình dục khác hẳn loài thú vật, là loài động tình theo mùa hoặc chu kỳ sinh sản; cho nên Phaolô dặn rằng: “Chồng phải làm trọn bổn phận đối với vợ, vợ đối với chồng cũng vậy” (3). Chữ ‘bổn phận’ ở đây là giải thích thêm về việc “tránh gian dâm,” không có ý nói về những trách nhiệm khác của sự làm việc sinh sống, mà là bổn phận đáp ứng những đòi hỏi ân ái thân mật của tình yêu nam nữ.  Bởi vì hễ người nầy từ chối đòi hỏi của người kia, thì tạo dịp cho tội gian dâm có chỗ phát tác.  Một lý do nữa là khi hai người đã thành vợ chồng thì đã trở nên một thân; vì thế: “Vợ không có quyền trên thân thể mình nhưng là chồng; chồng cũng không có quyền trên thân thể mình, nhưng là vợ” (4).

Những người đã sống chung với nhau lâu ngày, hoặc không còn yêu nhau nồng nàn như thời thanh xuân, hoặc đã chán người phối ngẫu của mình, thì thường viện cớ quyền làm chủ thân thể– theo trào lưu của xã hội thời đại tôn cao nữ quyền – từ chối không cho chồng ân ái; hoặc đàn ông bắt đầu si mê một người đàn bà khác, không cần biết đến nhu cầu yêu đương của vợ, làm lơ việc gối chăn với người mà mình đã thề non hẹn biển thời còn trẻ tuổi.  Bất cứ phía nào hành xử như vậy sẽ tạo cơ hội tốt cho ma quỷ cám dỗ người bạn đời của mình vào tội gian dâm thực sự, hoặc gian dâm trong tư tưởng. Phaolô khuyên: “Đừng từ chối nhau, trừ khi hai người đồng ý dành một thời gian để chuyên tâm cầu nguyện, rồi trở lại với nhau, để satan không [thể lợi dụng] nhân lúc anh chị em thiếu tự chế mà cám dỗ” (5).  Có nhiều lúc tín hữu phải biết tự chế và kiêng cữ sự vui thú khoái lạc xác thịt để chuyên tâm vào sự cầu nguyện và thờ phượng Chúa.

Về vấn đề nầy, chúng ta phải biết tự lượng sức mình trong việc lập các hứa nguyện kiêng ăn cầu nguyện hoặc kiêng cữ tình dục.  Mọi sự chịu đựng giỏi và lâu dài đều phải trải qua luyện tập từ mức độ thấp lên cao dần.  Tín hữu cần lưu ý rằng những gì mà Đức Chúa Trời đã thiết lập cho chúng ta hưởng, là phương cách tốt nhất để tránh phạm các tội mà Ngài đã định ý để giúp chúng ta tránh chúng. Vậy, “để tránh tội gian dâm, mỗi người đàn ông nên lấy vợ, và mỗi người đàn bà nên lấy chồng” (2), vì Chúa có phán: “Loài người ở một mình thì không tốt” (Sáng thế 2:18).

Phaolô tiếp tục giải thích rõ câu nói “người nam nên lấy vợ” (2) không phải là một lệnh ông đặt ra: “Nhưng đây là điều tôi chấp thuận, chứ không phải một mệnh lệnh” (6).  Ông muốn nói rằng không phải hễ là đàn ông thì phải lấy vợ mà không có ngoại lệ nào.  Bất cứ người đàn ông nào cũng có quyền cưới vợ.  Không một luật nào của Chúa cấm đoán điều đó.  Cũng không luật nào nói rằng nếu không lấy vợ thì phạm tội.  Đàn bà cũng vậy, chẳng luật nào trong Kinh Thánh buộc họ phải lấy chồng hoặc không được lấy chồng.  Mọi người cũng đều có quyền thề nguyện ở độc thân.  Tuy nhiên, đã thề nguyện thì buộc phải giữ lời thề. Phaolô muốn mọi người đều không bị ràng buộc bởi hôn nhân, sống độc thân như ông, để có thể toàn tâm toàn ý phục vụ Chúa: “Vì tôi muốn mọi người sống như tôi” (7). Có khả năng sống độc thân mà không bị những ham muốn tình dục hành hạ là một ân tứ đặc biệt.  Không phải ai cũng được ban cho ân tứ ấy: “Tuy nhiên, mỗi người được Đức Chúa Trời ban cho ân tứ riêng biệt, người thế nầy, kẻ thế khác.  Đối với người đang sống độc thân hay ở goá, nếu cứ sống như tôi là tốt” (7–8).

“Nhưng nếu không tự chế được, họ nên lập gia đình, vì thà có vợ có chồng còn hơn để cho lửa tình nung nấu” (9).  Như đã nói ở trên, hôn nhân do Đức Chúa Trời thiết lập để tạo ra sự thoả mãn, đáp ứng nhu cầu tình dục nồng ấm nhất giữa hai người yêu nhau, là sự sắp đặt khôn ngoan của Chúa cho con cái Ngài để họ tránh khỏi sự gian dâm. Tuy nhiên, đừng bao giờ nghĩ rằng hôn nhân sẽ giải quyết được tánh dâm dục. Việc đáp ứng nhu cầu tình dục yêu thương giữa hai người yêu nhau khác hẳn với sự đòi hỏi thoả mãn nhu cầu thể xác của người có tánh dâm dục. Vì dâm dục là một loại thú tính của thể xác con người. Hôn nhân không bao giờ có thể làm thoả mãn tính dâm dục của người ta.  Tín hữu cần phải hết sức cẩn thận đừng hiểu lầm ý của Phaolô trong việc nầy.  Vì có người muốn sống một đời lý tưởng là độc thân để toàn tâm phục vụ Chúa.  Nhưng về mặt tình dục thì họ không thể tự chế; do đó sẽ dễ bị cám dỗ phạm tội gian dâm.  Những người tự biết nhu cầu thể xác của mình như thế, thì nên tìm một đối tượng yêu thương mà kết hôn.

Một vấn đề kế tiếp thường xảy ra trong cộng đồng những người Dothái quy đạo vào thời ấy là vấn đề ly dị.  Luật Môise cho phép những người chồng ly dị vợ.  Đã có một thời những người Giuđa bị buộc phải ly dị những bà vợ người ngoại bang thờ hình tượng (Exơra 10:3).  Điều đó có thể làm cho một số người quy đạo toan tính trong lòng là sẽ nhân cơ hội bỏ hoặc ly dị các bà vợ hoặc chồng của họ viện cớ là vì những người vợ hay chồng không chịu theo đạo. Vị sứ đồ đưa ra huấn thị rõ ràng về việc nầy. Về tổng quát, ông nói rằng theo luật Chúa định thì hôn nhân là một sự ràng buộc suốt đời; vì vậy, những người đã lập gia đình đừng nghĩ tới chuyện chia rẽ: “Đối với người đã lập gia đình, tôi truyền lệnh (đây là mệnh lệnh của Chúa, không phải của tôi): Vợ không được bỏ chồng;..Chồng cũng không được ly dị vợ”(10–11). Tín hữu chỉ được ly dị vợ hoặc chồng của mình trong trường hợp người kia ngoại tình (Mathiơ 5:32).  Nghĩa là tín hữu không thể bỏ chồng hoặc vợ tuỳ theo ý thích.  Và sự quy đạo không phải là cơ hội để thay vợ đổi chồng.

Theo sự dạy dỗ của Đức Chúa Giêxu thì ly dị vợ hoặc chồng mà không phải vì cớ ngoại tình là phạm tội gian dâm.  Cho nên, nếu một nữ tín hữu sau khi tin Chúa hoặc là đã bỏ chồng hoặc bị chồng ly dị thì không nên lấy chồng khác, mà phải hoà giải với chồng trước đã. Nếu người chồng nhất quyết ly dị vì vợ đã tin Chúa, thì người nữ tín hữu sẽ không bị cuộc hôn nhân ấy ràng buộc. Việc người đó ở độc thân như vậy trong một thời gian để chứng tỏ mình không phạm tội tà dâm là điều nên làm, để Danh Chúa không bị người ngoại đạo xúc phạm.  Không phải chỉ nữ giới mới bị buộc, cả nam giới cũng bị buộc như thế, vì chồng và vợ được ràng buộc với nhau trọn đời; luật của Chúa không cho phép chia rẽ theo ý riêng nếu không phải vì cớ ngoại tình.  Mệnh lệnh trên được áp dụng cho mọi tín hữu. Tất cả những vụ ly dị giữa những đôi vợ chồng là tín hữu vì xung khắc tánh tình, thì không có cớ hợp pháp nào để biện minh cho quyết định của họ; vì sau khi ly dị, họ thường kết hôn với người khác; và như vậy họ đã liên tục phạm tội gian dâm.

1Corinhto10.docx

Rev. Dr. CTB