Chúa Nhật, August 24th, 2014

Sáng Thế Ký, 09

Sáng Thế 3:14–24

Ê-va bị mắc mưu satan vì nghe lời hắn đặt nghi vấn về thẩm quyền của Đức Chúa Trời trên bà. Bà dời mắt mình khỏi nhiều thứ trái cây đẹp mắt và ngon (2:9) mà Chúa đã ban cho hai người được tự do hái ăn; để cho tánh tò mò và tâm lý bất tuân khiến bà chăm chú vào một cây mà Chúa đã cấm không được ăn. Bà cũng tin lời con rắn xuyên tạc thiện ý của Chúa nên không còn tin vào lời cảnh cáo của Ngài.

Các hậu quả xảy ra ngay lập tức sau khi phạm tội là: Mất sự trong trắng, “mắt mở ra” thấy mình trần truồng (3:7a), cảm thấy xấu hổ nên “kết lá cây vả làm khố che thân” (3:7b), trốn tránh không dám gặp Chúa (3:8), và bị mặc cảm phạm tội nên “sợ” Chúa (3:10).

Suy gẫm về các sự kiện vừa nói, chúng ta rút ra nhiều bài học hữu ích cho đời sống tâm linh của mình. Bởi vì các sự kiện tiếp theo trong ký thuật về án phạt của Đức Chúa Trời dành cho các bên vi phạm, cho thấy những nỗi khốn khổ của phận người đều là hệ quả của hành vi phản loạn vô ý thức phát xuất từ lòng nghi ngờ thiện ý của Đức Chúa Trời.

Thật ra cho đến nay, không một người nào biết từ ngày Ê-va được dựng nên cho tới ngày bà phạm lỗi hái trái cấm và ăn là bao lâu cả. Chỉ căn cứ trên cách suy nghĩ của bà, thì người đọc Kinh-thánh biết rằng A-đam và Ê-va đã có bộ óc của người trưởng thành. Vì vậy, lỗi lầm của họ không giống như lỗi của các trẻ thơ.

Thói đổ lỗi cho người khác đã bắt đầu từ tổ tiên chúng ta. A-đam đổ lỗi cho Ê-va mà không thấy tội bất tuân của ông. Đức Chúa Trời giao khu vườn địa đàng cho ông gìn giữ, Ngài cũng tạo nên người đàn bà đem đến cho ông tình bạn, tình yêu, và hai người trở nên một thịt (2:24).

Nhưng chẳng những ông không giữ được vợ khỏi bị con rắn buông lời cám dỗ, ông cũng quên luôn lệnh cấm của Chúa không được ăn trái của cây biết điều thiện và điều ác.

Bà Ê-va thì đổ thừa cho con rắn đã lừa dối bà. Giống như ngày nay nhiều người đã kiện hãng sản xuất thuốc lá, vì khói thuốc mà họ ghiền hút đã khiến họ bị ung thư phổi, mặc dù trên gói thuốc đã in lời cảnh cáo rõ ràng.

Chỉ một mình con rắn, là thủ phạm, đã chẳng có ai để đổ lỗi được hết. Sự tuyên án của Chúa đến cách nhanh chóng. Ngài rao sự nguyền rủa trên con rắn, phạt hắn phải bò bằng bụng, ăn bụi đất trọn đời, và dòng dõi hắn sẽ thù nghịch với dòng dõi của người nữ (14–15).

Án phạt dành cho  người nữ là sự nhọc nhằn khi mang thai, nỗi đau đớn rất nhiều khi sinh đẻ, dục vọng vẫn phải xu hướng về chồng mình, và quyền tự do riêng thì bị chồng cai trị (16).

Người nữ được dựng nên để giúp đỡ chồng trong sự bước đi với Đức Chúa Trời. Nhưng cái nọc phản loạn đã có từ xưa vẫn nổi lên giữa vòng nữ giới ngày nay và tiếp tục dụ dỗ nam giới phản nghịch Chúa.

Án phạt cho tội nghe lời vợ của A-đam không những chỉ ảnh hưởng tới một mình ông, mà cả “đất đai vì ông mà bị nguyền rủa” (17–18).

Trước đó ông vui hưởng tất cả hạnh phúc mà Chúa đã lập sẵn cho ông: Đất phải nuôi dưỡng cây cối để cây cối sinh ra trái ngon ngọt cho loài người ăn và sống.

Nhưng qua tội lỗi của ông, đất không còn hợp tác với A-đam nữa mà sẽ sinh ra gai gốc và cây tật lê, để loài người phải đổ mồ hôi khi dọn dẹp cây dại, cày xới đất đai và ăn rau cỏ ngoài đồng.

Thời ấy loài người chưa khám phá ra lửa, nên sự khổ sở của người là đang được ăn trái cây ngon ngọt, thì bây giờ phải hái rau cỏ mà ăn sống (18–19).

Rồi A-đam, thuỷ tổ loài người, phải trở về đất, là nơi ông từ đó ra: “Vì con là cát bụi, con sẽ trở về với cát bụi” (19b).

Mặc dù hậu quả tội bất tuân của loài người là buồn thảm; mặc dù câu chuyện ly kỳ của công việc tạo thiên lập địa vô cùng tốt đẹp của Đức Chúa Trời bị satan phá khuấy, khiến loài người bị đuổi khỏi vườn địa đàng; nhưng Đức Chúa Trời đã dự trù một chương trình cứu độ vô cùng khôn ngoan trước khi Ngài tạo lập vũ trụ.

Đấng Cứu Thế, dòng dõi người nữ, sẽ giày đạp đầu con rắn; tức là tiêu diệt nọc độc của tội lỗi, phá tan quyền lực của satan và đánh bại sự chết do tội lỗi gây ra sau khi loài người phạm tội (15b). Ách thống trị của satan trên nhân loại bị mất hiệu lực.

Ê-va có nghĩa là “mẹ của cả loài người,” là tên do A-đam đặt cho (20). Vì loài người đã mất sự trong trắng, xấu hổ về sự loã lồ của họ, nên Đức Chúa Trời “lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A-đam rồi mặc vào cho họ” (21).

Ngay từ lúc ban đầu, Đức Chúa Trời đã là Đấng cung ứng cho mọi nhu cầu của loài người. Có lẽ A-đam và Ê-va rất lạ lẫm đối với mấy cái áo dài mà Chúa làm cho họ; cho nên, Chúa phải mặc cho họ, nghĩa là dạy họ phải biết mặc áo ra sao.

Như đã nói ở trên, ngoài Đức Chúa Trời và các thiên sứ hiện diện khi loài người được dựng nên, thì không ai biết từ ngày A-đam được thành một sinh linh từ bụi đất, cho tới ngày ông phạm tội bất tuân là bao lâu.

Và theo các ký thuật ở phần Kinh-thánh nầy, chắc rằng sự chết, dù đối với loài thú, chưa bao giờ xảy ra. Bây giờ vì tội lỗi của A-đam và Ê-va, mấy con thú phải bị hi sinh để Chúa lấy da của chúng làm áo cho họ.

Như vậy, có lẽ đấy là lần đầu tiên A-đam và Ê-va thấy sự chết xảy ra. Mọi việc đó đều là mới lạ đối với những con người đầu tiên sống trên mặt đất.

Tình cảnh A-đam và Ê-va bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng là một hình ảnh quá buồn thảm. Khi trước, họ đã không hái trái cây sự sống mà ăn; bây giờ, mọi ngả đường dẫn đến cây ấy đều bị cấm (22–24).

Có lẽ họ vẫn được ăn trái những cây khác ở ngoài rìa khu vườn, hoặc những cây đã được Chúa tạo nên trước khi loài người có mặt. Bởi lẽ từ món ăn thường ngày là trái cây, chuyển sang ăn cỏ phải mất một thời gian mới quen dần được.

Hoặc là Chúa vẫn ban trái cây cho họ ăn tới ngày biết canh tác, trồng tỉa lương thực. Để làm việc đó, A-đam cần có nhiều thời gian để suy nghĩ và chế ra các dụng cụ dùng trong cuộc sống mỗi ngày.

Nhiều người đã trách Đức Chúa Trời sao quá nghiêm khắc, chỉ vì Ê-va và A-đam ăn trái cây bị cấm có một lần thôi, mà Ngài nỡ phạt họ quá nặng.

Những người phản đối hoặc trách móc Đức Chúa Trời là những người chưa hiểu gì về Ngài cũng như chẳng có chút ý thức nào về sự thánh khiết. Những tội nhân mang đầy tâm tính tội lỗi lại cho rằng mình công nghĩa hơn Đấng Tạo Hoá được sao?

Hành động bất tuân của A-đam và Ê-va xuất phát từ động lực trong lòng họ muốn làm theo ý riêng, chứ không chịu phục chương trình của Đức Chúa Trời.

Sự ký thuật quá ngắn gọn về các sự kiện đã diễn ra tại vườn Ê-đen, khiến chúng ta không biết hết các dữ kiện. Nhưng Chúa là Đấng biết rõ lòng người, và vì Ngài là Đấng Công Nghĩa, nên Ngài không làm điều gì sai trái.

Những tín hữu nào là người trưởng thành đều biết điều đó là thật. Nếu chúng ta tự xét chính mình, sẽ thấy nhiều thành viên trong Hội-thánh đang phạm nhiều thứ tội.

Có người thì cung cấp chi tiết cá nhân cách gian lận vì lý do duy trì trợ cấp từ chính phủ, người khác phạm tội về tình dục, có người phạm tội ngoại tình.

Người thì ngồi lê đôi mách, phao tin đồn thất thiệt, nói xấu người khác; người thì hung dữ, hay ăn nói tráo trở; người thì chửi rủa khi nổi nóng; người khác nữa thì có cái lưỡi hoạt động tối đa mà không biết rằng điều đó là xấu; người thì hễ có cơ hội là khoe khoang thành tích vì quá chú trọng cái tôi ham muốn danh vọng của mình.

Còn có biết bao tội khác nữa giữa vòng chúng ta. Thống kê của James Emory White cho biết 91% người Mỹ thú nhận họ thường xuyên nói dối.

Tuy nhiên, đừng ai ngã lòng, vì chúng ta đã đến đúng chỗ. Chúng ta tới đây không phải vì là người thiện hảo. Chúng ta tới đây vì biết mình không tốt lành gì và thiết tha cần ân sủng với tình yêu của Đức Chúa Trời giữa một thế gian đầy dẫy tội lỗi.

Các con cái thật của Chúa đều hiểu sự thật đó, nên chẳng ai dám tin cậy vào khả năng mình có thể chống trả nổi quyền lực của thế giới tối tăm.

Ngày xưa, sau khi ăn trái cấm, A-đam và Ê-va biết phân biệt giữa điều thiện với điều ác một bậc với Đức Chúa Trời.

Nhưng tình hình của thế giới bây giờ ngày càng tồi tệ đến nỗi, ngày nay có vô số người sống trong xã hội văn minh tân tiến, mà không biết phân biệt giữa đúng với sai, thiện với ác. Họ hoàn toàn mất ý thức về lẽ phải, nên chạy theo các phong trào hay trào lưu dẫn đến sự băng hoại ngày càng trầm trọng trong xã hội.

Chúng ta tin rằng ân sủng của Chúa luôn luôn dư dật cho những ai tìm kiếm Ngài. Dù hoàn cảnh có ra sao, Chúa vẫn luôn bảo vệ và tẩy sạch tâm tính chúng ta.

SangTheKy09.docx

Rev. Dr. CTB