Hướng Đi Mới, bài 09

Êsai 40:25–26

Đấng Thánh phán: Các con so sánh Ta với ai? Ai sẽ ngang bằng với Ta?Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã sáng tạo những vật nầy? Ngài là Đấng khiến các thiên thể ra theo số lượng và đội ngũ, Ngài gọi đích danh tất cả chúng, không bỏ sót một thiên thể nào, vì sức mạnh vĩ đại và quyền năng vô biên của Ngài.

Ý nghĩa của sự truyền rao chân lý đạo Chúa là nói cho người chưa tin biết về sự thật của điều mình tin; vì vậy, những ai muốn thực hiện nhiệm vụ truyền giáo thì phải học, nghiên cứu và nắm vững những niềm tin mà mình biết chắc đó là sự thật. Sự thật về điều gì? Chúng ta tin và thờ kính Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa; bởi vì chính Ngài tạo và ban sự sống cho muôn loài vạn vật trên địa cầu, đó là sự thật. Vì đó là sự thật, cho nên chúng ta biết mình đã đặt lòng tin đúng và hợp lý. Tại sao tin Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa thì đúng và hợp lý? Không cần phải là khoa học gia nghiên cứu các loài thú vật, người bình thường nào cũng biết chúng được sinh ra. Nguồn gốc của tổ tiên chúng từ đâu ra thì đều quy về Đấng đã tạo dựng, vì chúng không tự nhiên mà có.

Với bộ óc và đôi mắt được cấu tạo vô cùng tinh xảo và đáng sợ, thì nguồn gốc loài người cũng quy về Đấng Tạo Hóa mà thôi (Thi Thiên 139:14) “Con cảm tạ Chúa vì con được dựng nên một cách đáng sợ và lạ lùng. Công việc Chúa thật quá diệu kỳ, lòng con biết rõ lắm.” Nhưng một điểm vô cùng quan trọng không phải là các tạo vật, mà là sự vận hành rất trật tự của vô số thiên thể từ hàng tỷ năm qua theo một luật không bao giờ sai trật đã được định cho cả vũ trụ (Gióp 38:33) “Con có biết quy định của các tầng trời? Con có thể lập quy luật như thế dưới đất không?” Chúng ta gọi Đấng đã lập và định ra các luật vật lý và hóa học cho cả mọi loài và hàng tỷ tỷ thiên hà ấy là Đức Chúa Trời. Vì quan sát và biết được các định luật dành cho mọi thiên thể trong vũ trụ, chúng ta phải tin có một Đấng Tạo Hóa đã dựng nên muôn loài vạn vật hiện đang có, kể cả các loài đã bị diệt chủng.

Biết có một Đấng Tạo Hóa là một việc, nhưng biết Đấng ấy là ai và như thế nào là chuyện khó khác. Nếu Đức Chúa Trời không tự bày tỏ chính Ngài cho loài người biết thì không một ai xưa nay có thể biết được một chút gì về bản thể của Ngài. Từ thời xưa Ngài bày tỏ một tình yêu thương kỳ diệu lạ lùng (Êsai 54:8, 10) “‘Trong cơn tức giận tột cùng, Ta ngoảnh mặt khỏi ngươi một lúc, nhưng vì lòng nhân từ vô biên, Ta sẽ thương xót ngươi,Đấng Cứu Chuộc ngươi là Đức Giê-hô-va phán vậy. 10 Dù núi dời, dù đồi chuyển, nhưng lòng nhân từ của Ta không dời khỏi ngươi, và giao ước bình an của Ta chẳng chuyển lay; Đức Giê-hô-va là Đấng thương xót ngươi phán vậy.” Tới đúng kỳ hạn mà Ngài đã định trước, Ngài giáng trần làm một người là Đức Chúa Jesus để bày tỏ đức thương xót, chân lý và quyền phép một cách cụ thể. Trước đó đã có vài người được sinh ra và xưng là đấng tiên tri hay thầy giáo, sớm nhất là Moses thế kỷ 16 BC. Sau đó là Phật Thích Ca và Khổng Tử ở thế kỷ 6 BC, rồi Lão Tử ở thế kỷ 5 BC. Chỉ có Đức Chúa Jesus cho biết Ngài chính là chân lý, là Đức Chúa Trời xuống trần làm người (Giăng 14:6–7) “Đức Chúa Jêsus đáp: Ta là đường đi, chân lý và sự sống. Chẳng bởi Ta thì không ai được đến với Cha. Nếu các con biết Ta thì cũng biết Cha Ta; từ bây giờ các con biết và đã thấy Ngài.

Để trí óc loài người tin có một Đấng Tạo Hóa thì không khó. Nhưng để biết Đấng Tạo Hóa ấy là Đức Chúa Trời đầy tình yêu thương thì người ta phải hiểu chương trình của Đức Chúa Trời gửi Đức Chúa Jesus giáng trần chết thay cho tội lỗi của loài người là để bày tỏ tình yêu ấy (Giăng 3:16) “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” Người nào nhận biết đời sống mình đã phạm nhiều lầm lỗi, và cũng biết không ai có thể chuộc lại tội lỗi đã phạm, thì người ấy mới nhận ra họ cần một Đấng Cứu Thế cứu họ ra khỏi án phạt ở đời sau. Bởi vì nếu ai không tin hoặc không biết những ý nghĩ, toan tính xấu xa, gian ác, và việc làm sai trái là tội lỗi, thì người ấy sẽ không cần một Đấng Cứu Thế nào hết. Nhưng cái gốc đạo đức thẳm sâu trong lòng con người khiến cho người ta biết họ có phạm tội.

Vấn đề nan giải là người ta phải biết họ có tội với ai, và ai sẽ trừng phạt họ ở đời sau? Thiếu sự hiểu biết nầy thì không ai sợ sự trừng phạt. Người truyền giáo phải biết rõ để phân tích và giải thích kỹ càng cho người nghe. Vì người ta sẽ bị trừng phạt là một sự thật được Kinh Thánh nói rõ (Khải Huyền 20:14–15) “Rồi Sự chết và Âm phủ bị ném xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. Người nào không được ghi tên vào sách sự sống thì bị ném xuống hồ lửa.” Mặc dù Đức Chúa Trời đầy tình yêu thương, nhưng chính Ngài là Đấng trừng phạt mọi kẻ ác mà không chịu ăn năn khi có cơ hội chấp nhận giải pháp mà Đức Chúa Trời đã đưa ra để người nào tin thì được cứu (Giăng 3:17–18) “Vì Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến thế gian không phải để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con mà được cứu. Ai tin Con thì không bị kết án đâu, còn ai không tin thì đã bị kết án rồi, vì không tin đến danh Con Một của Đức Chúa Trời.” Giải pháp để cứu rỗi loài người tội lỗi là Đức Chúa Trời sai Ngôi Lời (tư tưởng, trí tuệ, sự khôn ngoan, và lời nói của Ngài) giáng sinh ở thế gian làm một người, và đặt tên người ấy là Jesus (Mathiơ 1:21) “Nàng sẽ sinh một con trai; ngươi hãy đặt tên là Jêsus, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.” Vậy Đức Chúa Jesus là giải pháp cao tột đỉnh.

Người ta phải làm gì để tiếp nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời? Bởi vì chẳng ai đã từng thấy Đấng Tạo Hóa; cũng chẳng ai đã sống trên thế gian trong hơn 19 thế kỷ qua được thấy Đức Chúa Jesus bằng xương bằng thịt. Làm thế nào để người ta có thể tin điều mà họ không thấy? Rất nhiều điều người ta không thể thấy tận mắt nhưng tin là có thật khi nhận ra kết quả; ví dụ, chẳng ai thấy các làn sóng vô tuyến, nhưng sử dụng điện thoại không dây cách rành rẽ vì tin các hãng cung cấp dịch vụ điện thoại sẽ chuyển làn sóng điện đến máy cá nhân của mình. Tương tự như thế, người ta tin có Đấng Tạo Hóa khi quan sát mọi thứ tạo vật Ngài đã dựng nên. Người ta cũng tin Đức Chúa Trời chính là Đấng Tạo Hóa ấy bởi vì mọi điều Kinh Thánh của Ngài cho biết đều đúng hết.

Chẳng những các lời tiên tri trong Kinh Thánh từ xưa tới nay đều đúng phong phóc không sai trật, mà đời sống được biến đổi của những người tin Đức Chúa Jesus là bằng cớ chứng minh quyền năng biến đổi của Ngài là thật, và quyền năng ấy chứng minh Ngài là Đấng thật đã sống lại từ cõi chết. Nếu những người thật lòng tin không được đổi mới gì hết thì người ta có lý do để nghi ngờ; nhưng rất nhiều người được hưởng quyền năng của Ngài đổi mới đời sống và tâm tánh của họ mà không cần phải khổ tu ép xác gì hết, thì ắt phải có một bí quyết rất hiệu quả trong vấn đề nầy.

Bí quyết ấy gọi là đức tin. Kinh Thánh định nghĩa đức tin như sau: (Hêbơrơ 11:1) “Đức tin là sự xác quyết về những điều mình đang hi vọng, là bằng chứng của những điều mình chẳng xem thấy.” Đức tin là chìa khóa để người tin mở các cửa ơn phước cho mình. Nó là bí quyết, bởi vì “không có đức tin thì không thể nào làm hài lòng Đức Chúa Trời; vì người nào đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng Ngài thực hữu, và Ngài là Đấng ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài.” (Hêbơrơ 11:6). Người nào thật lòng tin, người ấy sẽ được thấy những việc siêu nhiên là bằng chứng sự hiện hữu của Đức Chúa Jesus trong Đức Chúa Trời; vì đức tin là bí quyết để nhận được ơn cứu rỗi.

Trên đây là tóm tắt những điều phải nói, tức là hành động gieo hột giống Tin Lành. Không cần phải nói nguyên văn, nhưng cần phải đọc đi, đọc lại, hiểu thật rõ bốn điểm căn bản: Đức Chúa Trời là Đấng có thật và đầy lòng yêu thương. Loài người phạm tội và không thể tự giải thoát; chẳng có ai trong nhân loại cứu giúp được chúng ta. Đức Chúa Jesus, Ngôi Lời của Đức Chúa Trời là giải pháp tuyệt diệu do Đức Chúa Trời ban cho có đủ quyền năng cứu vớt nhân loại. Bí quyết để nhận lãnh ơn cứu độ của Đức Chúa Trời là đức tin rằng Ngài hiện hữu; rằng Đức Chúa Jesus chính là Đức Chúa Trời trong thân thể loài người đã chết thay để chuộc tội cho bất cứ ai đặt lòng tin.

HuongDiMoi09.docx – MS CTB