Hướng Đi Mới, bài 08
Êphêsô 6:1–3
“Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ mình trong Chúa, vì đây là điều phải lẽ. ‘Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi‘ — ấy là điều răn thứ nhất, có kèm theo lời hứa — ‘để ngươi được phước và được sống lâu trên đất.‘”
Trở ngại thường gặp nhất trong việc đem người Việt đến ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời là tục lệ thờ cúng tổ tiên. Từ lâu, thế giới tối tăm đã dùng vấn đề nầy để làm mù lòa tâm linh của những người muốn thể hiện lòng hiếu thảo đối với tổ tiên cha mẹ họ. Vì đa số người Việt chỉ thờ cúng tổ tiên theo tập quán của gia đình, mà Phật giáo ở Việt Nam cũng thực hành tập quán đó, nên nhiều người Việt tưởng họ thuộc về Phật giáo. Thật ra ít người biết niềm tin thật của đạo Phật là gì. Giải thích việc nầy rất tế nhị, trong khi đa số tín hữu lúng túng không biết cách giải thích. Có người bắt chước vài giáo sĩ tuyên bố thờ tổ tiên là thờ lạy ma quỷ, một lời nói xúc phạm sâu đậm tình cảm của người Việt. Đi truyền giáo mà nói như vậy thì đừng mong dẫn người chưa tin đến với Chúa.
Chúng ta phải biết lý do tại sao hiện nay người ta thờ cúng tổ tiên; rồi sự thờ cúng ấy đúng sai như thế nào. – Thời xưa, người Việt cổ không có các hình thức thờ cúng tổ tiên như hiện nay; hầu hết tập quán văn hoá và tín ngưỡng người Việt do người Tàu truyền trong thời họ cai trị. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì khoảng năm 110 BC, quan thái thú Tích Quang dạy lễ nghĩa còn thái thú Nhâm Diên thì chỉ dẫn người Việt làm ruộng. Tuy nhiên, việc thể chế hoá sự thờ cúng 5 đời tổ tiên bắt đầu có do bộ luật Hồng Đức của nhà hậu Lê ở thế kỷ AD 15, cách nay hơn 500 năm, quy định; lúc ấy Nho giáo chiếm ưu thế trong xã hội. Đời nhà Nguyễn Nho giáo vẫn thịnh hành thì nghi lễ thờ cúng tổ tiên ghi rõ trong sách “Thọ Mai Gia Lễ.” Vậy, sự thờ cúng tổ tiên ra từ Khổng giáo.
Sự thờ cúng tổ tiên được quy định thành luật nhằm khuyên người ta phải biết hiếu kính ông bà, cha mẹ và các bậc tiền nhân. Nhưng người thờ cúng gặp trục trặc của thuyết sáu cõi luân hồi từ đạo Bà-la-môn mà Phật giáo sử dụng, nói rằng chỉ người nào tái sinh vào cõi ‘ngạ quỷ’ thì mới có thể về ăn đồ cúng. (Sáu cõi ấy gồm có: Cõi trời, cõi Atula, cõi người, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ [quỷ đói], và cõi địa ngục). Con cháu không biết ông bà, cha mẹ, tổ tiên sau khi chết đầu thai vào cõi nào. Nếu họ thành ngạ quỷ thì chẳng ai muốn rước. Thế thì, tục lệ thờ cúng tổ tiên có phải là một tôn giáo mà người Việt vẫn gọi là ‘đạo lương’ không? Có thể khẳng định là không, vì sự thờ cúng không cần trường đào tạo, không có kinh sách, chẳng hệ thống, tín điều, giáo lý gì hết.
Tưởng nhớ tổ tông là điều tốt, vì Đức Chúa Trời muốn những người làm con phải hiếu kính cha mẹ (Êphêsô 6:1–3) “Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ mình trong Chúa, vì đây là điều phải lẽ. ‘Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi‘ — ấy là điều răn thứ nhất, có kèm theo lời hứa — ‘để ngươi được phước và được sống lâu trên đất.‘” Dù Kinh Thánh dạy con cái phải hiếu kính cha mẹ, không dạy phải cúng thờ người đã chết, nhưng không có gì sai khi để lòng tưởng nhớ công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ đối với mình, vì tình cảm của con cái là yêu thương cha mẹ.
Luật Hồng Đức buộc phải thờ tới đời tổ, tức là trên ông cố một thế hệ. Nhưng hầu hết người trên thế gian tưởng nhớ cao lắm là ông bà đã qua đời. Bởi vì số người có những kỷ niệm thân yêu với ông bà cố thì rất ít. Còn vô số đời trước đó thì chẳng ai biết. Như vậy, sự thờ cúng tổ tiên bị thiếu sót và lỗi quá nặng, bởi vì đẳng cấp càng cao càng phải được tôn kính hơn, mà chẳng ai thờ cúng đủ tới cội nguồn.
Sách xưa dạy về đạo hiếu là “Thận chung truy viễn.” Con phải hết lòng chăm sóc cha mẹ già, khi họ qua đời bình an thì phải lo tang lễ chu đáo, gọi là ‘Thận chung’; ‘truy viễn‘ là tưởng nhớ công ơn nuôi dưỡng và vâng theo sự dạy dỗ đúng của tổ tiên. Số người làm được ‘thận chung‘ đã ít, mà ‘truy viễn‘ tới cội rễ của dòng họ mình càng ít hơn. Thế thì, chỉ có sự kính thờ Đức Chúa Trời, là cội rễ của loài người mới giải quyết được. Không kính thờ Đấng là cội nguồn của cả loài người thì lỗi ấy lớn lắm. Nhưng, thực tế ai cũng phải công nhận là không phải điều gì tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã làm hoặc dạy đều đúng; hầu hết người sống trên đời đều đã phạm biết bao điều rất đáng xấu hổ. Khi họ qua đời, tiếng xấu không mất được, vì tiếng xấu ấy bị “lưu xú vạn niên.”
Vô số người Việt thời nay không ở gần cha mẹ, đa số bỏ mặc cha mẹ già yếu tự lo thân, chẳng màng viếng thăm an ủi; sẵn sàng ăn uống sang trọng và tốn kém mua sắm cho mình, nhưng mỗi năm thì đắn đo cân nhắc số tiền quà biếu cha mẹ. Đến khi cha mẹ lìa trần lại tỏ vẻ hiếu thảo đốt nhang van vái, bày vẽ cúng kiến ê hề, người chết có ăn được đâu. Việc làm đó chỉ là vô ích. Có ba hạng người thực hành thờ cúng tổ tiên: Nhóm thứ nhất thật lòng yêu thương, tưởng nhớ ông bà cha mẹ của họ, nhưng không biết rõ sau khi chết rồi cha mẹ đi về đâu, có phù hộ được không; nhóm thứ nhì là lúc cha mẹ còn sống thì vô cùng bất hiếu, khi cha mẹ qua đời thì cúng giỗ để che mắt thế gian; nhóm thứ ba bắt chước người ta thờ cúng chứ chẳng biết việc đó đúng hay sai.
Theo thói đời thì một số người phô diễn cúng giỗ linh đình để chứng tỏ cho họ hàng thấy mình hiếu thảo đối với cha mẹ. Đó là trò che mắt thế gian; bởi vì lúc cha mẹ còn sống, chỉ có hàng xóm của cha mẹ mới biết rõ con cái có hiếu thảo thật hay không. Lòng hiếu thảo chân thật là noi gương cha mẹ, tổ tiên, nếu họ là những người hiền đức; hoặc tránh không phạm phải những điều cha mẹ đã làm mà mình biết là xấu xa gian ác; hoặc từ bỏ niềm tin sai trật của cha mẹ để làm gương tốt cho dòng dõi mình được phước lớn. Như vậy mới là hiếu thảo đúng nghĩa và được Đức Chúa Trời ban thưởng. Tóm lại, lòng hiếu thảo tưởng nhớ tới ông bà cha mẹ là đúng, đáng khen và là gương tốt cho con cháu noi theo. Nhưng sự cúng thờ mà tổ tiên cha mẹ không được hưởng gì hết, lại vi phạm luật Trời, thì dù là truyền thống lâu đời mà sai lạc, cũng phải suy xét mà hủy bỏ.
Người Á-đông lập bàn thờ gia tiên như một thế giới thu nhỏ của người đã khuất: Hai cây đèn hai bên tượng trung cho mặt trời, mặt trăng, khói nhang là tinh tú. Họ tin một cách lờ mờ rằng lời nguyện cầu sẽ theo khói hương chuyển đến ông bà tổ tiên. Bây giờ, hãy xem tập quán ấy đúng hay sai. Trước hết, sự thờ cúng tổ tiên luôn luôn thiếu sót: Tổ tiên xa đáng trọng hơn mà không thờ thì không hợp với đạo hiếu. Hơn nữa, Đấng Tạo Hoá, nguồn cội của mọi người trên thế gian mà không thờ, thì dù thờ bao nhiêu đời tổ tông xa gần gì đi nữa cũng mắc lỗi không thờ kính Trời; và tội ấy sẽ bị trừng phạt nặng. Hiếu kính cha mẹ không chờ lúc đã chết mà phải làm khi cha mẹ còn sống.
Con cái Chúa phải biết tưởng nhớ, biết ơn cha mẹ; dù cách ăn nết ở của họ lúc còn sống không được vẹn toàn, nhưng công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái là lớn lao vô cùng. Tuy vậy, sự thờ cúng giỗ chạp thì không được làm vì vi phạm luật thánh của Đức Chúa Trời ghi trong mười điều răn. Chỉ một mình Chúa của cả trời đất là Đấng duy nhất đáng được thờ lạy; vì sự sống từ Ngài mà ra và mọi thứ để duy trì sự sống cũng do Ngài ban cho. Thờ kính Ngài không có nghĩa là được phép bất hiếu với ông bà cha mẹ; người nào thật lòng thờ kính Chúa là người vẫn thường xuyên tưởng nhớ công ơn ông bà, cha mẹ đã sinh thành và nuôi dưỡng mình cho đến khi lớn khôn. Hiếu kính chỉ thật sự có ý nghĩa cao đẹp khi con cái còn ở nhà ngoan ngoãn, vâng lời dạy dỗ của cha mẹ (Côlôse 3:20) “Hỡi những người làm con, hãy vâng phục cha mẹ trong mọi sự, vì điều nầy đẹp lòng Chúa;” rồi hết lòng phụng dưỡng khi họ già yếu cần sự trợ giúp để sống bình an.
Vì thờ cúng tổ tiên không phải là tôn giáo, nên người kính mến tổ tiên dễ mở rộng lòng để tìm hiểu ơn cứu rỗi rao truyền tới họ, nếu họ được giải thích thỏa đáng; cho nên, nhiệm vụ của mỗi tín hữu là phải biết rõ sự thờ cúng tổ tiên bị sai trật như thế nào, rồi đừng mở miệng nói những lời xúc phạm vì mình không thờ cúng như họ. Hãy dùng tình yêu thương để giải thích thì sẽ thành công.
HuongDiMoi08.docx
MS CTB