Theo Dõi Tận Thế, bài 54
Khải Huyền 16:1–21
Mọi tai hoạ dữ dội nhất từ bảy bát thịnh nộ của Đức Chúa Trời phải xảy ra trên thế gian, bởi vì sau những tai nạn kinh hoàng đã diễn ra trước đó giết chết rất nhiều người, mà vẫn còn có những kẻ ưa thích các việc đen tối, họ xấc xược đứng lên chống trả Đức Chúa Trời. Đây là giai đoạn mà Chúa đã rút tình yêu vô biên của Ngài khỏi thế giới. Ngài đã đem Hội Thánh Ngài về trời, dân Do-thái đã có nơi trú ẩn an toàn rồi, người ăn năn tin Chúa trễ đã được cứu, thì những tai họa khủng khiếp sẽ giáng xuống địa cầu. Trước đó, các tai hoạ kinh hoàng cuối cùng chưa đổ xuống, vì những người thuộc về Chúa chưa được đưa tới nơi trú ẩn an toàn. Bây giờ, bảy vị thiên sứ đã sẵn sàng trút bảy cái bát chứa bảy tai nạn cuối cùng xuống thế gian một cách nhanh chóng.
Lúc đó, ông Giăng “nghe một tiếng lớn từ trong Đền Thờ bảo bảy thiên sứ rằng: ‘Hãy đi đổ bảy bát thịnh nộ của Đức Chúa Trời xuống đất’” (1). Thiên sứ thứ nhất bèn đổ bát của mình xuống đất, thì trên mình của những người có dấu con thú và thờ lạy hình tượng nó đều sinh ra ung nhọt độc và đau nhức (2). Người ta có thể chạy trốn khi tai họa xảy ra bên ngoài thân thể người. Nhưng khi ung nhọt độc nổi lên ngay trên thân thể của họ thì không có đường nào trốn thoát. Muốn trị nó không phải dễ dàng; bởi vì trên da thịt mỗi người không phải chỉ bị vài mụt nhọt độc, mà nhọt nổi lên khắp thân thể từ đầu đến chân. Loại nhọt độc do bát thịnh nộ thứ nhất đổ xuống là thứ nhọt mà thế gian không có thuốc trị. Vì thuốc của thế gian không thể trị được tai hoạ giáng từ thiên đàng.
Người còn lại trên thế giới lúc ấy đều có dấu của con thú và thờ lạy hình tượng nó. Vậy, mọi người đang còn sống đều bị ung nhọt độc hành hạ. Đang lúc bị đau đớn chưa biết cách giải quyết, thì vị thiên sứ thứ nhì trút bát của mình xuống biển. Tai họa của bát ấy làm cho nước biển trở thành máu người chết, là thứ có mùi hôi thối khủng khiếp cộng với mùi sình thối của cá chết (3). Tai hoạ nầy xảy ra mà loài người không cách gì chữa được; không khí bị ô nhiễm mùi hôi thối sẽ kéo dài một thời gian rất lâu. Cực hình đau đớn của ung nhọt độc cộng với mùi hôi thối của không khí bị ô nhiễm là phần của những người ưa thích sự dối trá và gian xảo của kẻ chống Đấng Christ. Chúng vừa bị đau nhức triền miên, vừa phải thở khí trời nhiễm mùi thối độc địa.
Thiên sứ thứ ba đổ bát mình xuống các sông suối là nguồn nước uống và sinh hoạt, làm cho nó cũng biến thành huyết. Nước sông suối do biển bốc hơi thành mây bay vào đất liền mưa xuống đất tạo thành. Nay biển đã biến thành máu người chết thì hi vọng về các cơn mưa đem nước trong sạch xuống các dòng suối trở nên quá mờ mịt. Đây là các tai hoạ mà người trần gian lúc ấy phải chịu (4). Thiên sứ được Đức Chúa Trời giao nhiệm vụ trông coi nước liền nói: “Lạy Đấng Thánh, ĐẤNG HIỆN CÓ, ĐÃ CÓ, Ngài là công chính, vì Ngài đã xét đoán những điều nầy; bởi chúng đã làm đổ máu những thánh đồ và các nhà tiên tri, nên Ngài đã cho chúng uống máu. Thật là đáng lắm!” (5–6). Tội ác người trần gian bị sự phán xét công nghĩa của Đức Chúa Trời trừng trị.
Tiếp theo lời thiên sứ trông coi nước, bàn thờ lên tiếng: “Thật vậy, lạy Chúa là Đức Chúa Trời Toàn Năng, những sự phán xét của Ngài đều là chân thật và công minh” (7). Đọc những câu Kinh Thánh nầy, người đọc mới hiểu rằng mọi việc ở thế gian đều có thiên sứ của Chúa coi sóc. Họ ghi nhận mọi hành động của loài người, mà dân trên thế gian không biết họ bị cõi linh theo dõi. Trước mặt Đức Chúa Trời mọi vật đều có sự sống và nói được; vì sự sống từ Chúa toả ra khắp mọi vật gần bên Ngài khiến mọi vật thành vật sống. Ngày xưa, hơi thở từ Chúa hà vào khối đất, khối đất ấy bèn trở nên một loài sanh linh, tức là con người đầu tiên (Sáng thế 2:7). Ai đã biết điều đó, người ấy sẽ rất cẩn trọng trong mọi hành động và mọi lời mình nói khi đang sống trên thế gian nầy.
“Thiên sứ thứ tư đổ bát mình trên mặt trời, thì mặt trời được phép dùng lửa thiêu đốt loài người” (8). Từ thời tạo thiên lập địa, mặt trời là nguồn sáng chính yếu soi xuống trái đất. Nó là sức mạnh của mọi sinh vật, vì ánh sáng và tia nóng của nó nuôi dưỡng sự sống cho muôn loài; bây giờ, mặt trời trở thành nguồn tai họa. Đây là một ví dụ cụ thể về cách mà những vật vốn là ơn phước cho loài người, bỗng biến thành quyền lực đem đau khổ đến cho những kẻ làm ác. Mặc dù bị sức nóng nung đốt rất bất bình thường, người thế gian vẫn không nhận ra họ đang bị quyền cai trị của Đức Chúa Trời trừng phạt. Ung nhọt độc chưa giải quyết nổi, lại bị sức nóng thiêu đốt; thay vì biết kinh sợ Đấng có quyền trên các tai họa nầy, kẻ ác lại xúc phạm đến Danh Đức Chúa Trời, và không chịu ăn năn về các việc ác mà họ đã làm (9). Vì vậy, sự khổ ải càng gia tăng thêm mà thôi.
“Thiên sứ thứ năm đổ bát mình trên ngai con thú, vương quốc của nó liền bị tối, và người ta cắn lưỡi vì đau đớn” (10). Chúng ta phải biết những hậu quả nào mà bát thịnh nộ thứ năm của Đức Chúa Trời làm cho người thuộc về con thú phải cắn lưỡi đau đớn. Bốn bát thịnh nộ trước làm tan rã dần tổ chức vương quốc của con thú. Trước tiên là bệnh ung nhọt độc trên từng cá nhân theo nó; kế đến là môi trường sống của họ bị hư hoại; rồi ánh sáng mặt trời họ nương cậy bỗng trở thành nguồn tai họa. Vương quốc của con thú vốn khoe khoang hợm hĩnh về khôn ngoan và tri thức bỗng bị tối thui. Khi người ta từ chối sự khôn ngoan từ thiên đàng, thì sự khôn ngoan và tri thức họ biến thành bóng tối. Họ tiếp tục không ăn năn, xúc phạm Chúa vì ung nhọt độc quá đau đớn (11).
Thiên sứ thứ sáu đổ bát mình trên sông Euphrates, sông liền cạn khô (12). Sông lớn Euphrates là một ranh giới thiên nhiên tiêu biểu cho sự ngăn chia giữa đông và tây. Các vua đông phương có thể là Iran, Ấn độ, và kể cả Trung Hoa, sẽ tiến về Israel trong trận chiến tranh cuối cùng. Tới thời điểm nầy, một danh hiệu mới nổi lên đi chung với con rồng và con thú: Tiên tri giả! (13). Hắn là con thú lên từ biển. Hắn bị gọi là tiên tri giả vì hắn dùng lời ngon ngọt để dụ dỗ loài người. Mục đích tiên tri giả là vận động hợp nhất các tôn giáo để đừng ai thờ Chúa nữa. Lúc ấy có ba tà linh giống như ếch nhái nhảy ra khỏi miệng rồng, miệng thú và miệng tiên tri giả. “Chúng là linh của ma quỷ, thực hiện các dấu lạ, và đi đến với các vua của cả thế gian để tụ họp họ lại cho chiến trận vào ngày trọng đại của Đức Chúa Trời Toàn Năng” (14).
Khi nghe biết việc nầy thì con dân Chúa hãy tỉnh thức, vì Chúa sẽ đến bất thình lình (15). Bãi chiến trường cuối cùng là Armageddon ở xứ Do-thái (16). Khi “thiên sứ thứ bảy đổ bát mình trong không khí thì có tiếng lớn từ ngai trong Đền Thờ nói rằng ‘Xong rồi!‘” (17). Tai họa động đất kinh khiếp chưa từng có trong lịch sử loài người nổ ra (18): Thành phố vĩ đại tức là Babylon cầm quyền trên thế gian bị chia làm ba, các thành phố lớn khác đều bị sụp đổ. Babylon bị uống chén rượu thịnh nộ của Chúa (19). Động đất quá lớn đảo hộn hết thảy, tất cả hải đảo và núi đều biến mất (20). Từng hột mưa đá nặng cỡ nửa tạ rơi xuống trên loài người. Nhưng trước tai họa ghê gớm như vậy, người ta vẫn chưa biết ăn năn và vẫn xúc phạm đến Đức Chúa Trời (21).
Mọi con cái Chúa ngày nay hãy gắng sức giữ lòng trung thành với Chúa; giữ đức tin và nếp sống đạo thánh sạch; để chúng ta được rước đi khỏi thế gian trước cơn đại nạn, hoặc được Chúa đưa về nơi trú ẩn an toàn khi các tai nạn nầy sẽ diễn ra, không bị trải qua thời vô cùng khổ ải của bảy tai họa cuối cùng.
TheoDoiTanThe54.docx
Rev. Dr. CTB