Hướng Đi Mới, bài 13

Hêbơrơ 11:1–3, 6

Đức tin là sự xác quyết về những điều mình đang hi vọng, là bằng chứng của những điều mình chẳng xem thấy. Thật vậy, nhờ đức tin mà người xưa đã được lời chứng tốt. Bởi đức tin, chúng ta biết rằng vũ trụ đã được dựng nên bởi lời của Đức Chúa Trời, đến nỗi những vật thấy được hình thành từ những vật không thấy được.6 Không có đức tin thì không thể nào làm hài lòng Đức Chúa Trời; vì người nào đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng Ngài thực hữu, và Ngài là Đấng ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài.

Định nghĩa của chữ ‘đức tin’ trong thư Hêbơrơ là rõ ràng và chính xác nhất. Thông thường thì người trong xã hội có thể tin vào các lý thuyết, thần linh, hay giáo chủ của tôn giáo nào đó, nhưng không ai có thể định nghĩa lòng tin của họ một cách rõ ràng. Khi đề cập tới chữ đức tin, trong bối cảnh trình bày cách tiếp nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời, cho thân hữu mà mình muốn truyền giáo, thì người trình bày phải hiểu rõ và nắm vững điều mình muốn nói. Đức tin là tin chắc hay tin quyết; nhưng tin cái gì, dựa trên nền tảng nào để tin? Lẽ dĩ nhiên điều tin tưởng đầu tiên, không sợ sai lầm, là tin có một Đấng Tạo Hóa, và Đấng ấy cho biết Ngài là Đức Chúa Trời; Danh Cao Cả của Ngài là Giêhôva, tiếng Hêbơrơ gọi là Yahweh (YHWH). Ngài là Chúa của cả trời và đất.

Chúng ta cũng tin tình yêu thương của Ngài đối với nhân loại là bao la, không bờ bến. Bởi vì điều trước hết là, nếu Ngài bắt tội những sự lầm lỗi và quá phạm của loài người, mà ai cũng phạm, mọi người đều phải bị trừng phạt, thì không ai giữ được mạng sống của họ. Nhưng vì tình yêu quá lớn, Ngài đã có một giải pháp từ trước khi tạo dựng thế gian: Ấy là sai Ngôi Lời của Ngài giáng sinh vào nhân gian làm một Người Thần sống một đời vô tội. Thần Nhân ấy đã chịu chết để chuộc tội cho toàn nhân loại. Sau khi bị chôn trong mộ đá, đến ngày thứ ba, Ngài đã phục sinh khải hoàn. Trong bốn mươi ngày sau khi phục sinh, Ngài đã hiện ra nhiều lần để dạy dỗ các sứ đồ của Ngài về Vương Quốc Đức Chúa Trời (Công vụ 1:3) “Ngài cũng dùng nhiều cách chứng tỏ cho các sứ đồ rằng Ngài đang sống sau khi đã chịu chết, và hiện đến với họ trong bốn mươi ngày, phán dạy về vương quốc Đức Chúa Trời.” Rồi Ngài về trời (Công vụ 1:9) “Sau khi phán những điều ấy xong, Ngài được cất lên trong lúc các môn đồ đang nhìn xem Ngài. Có một đám mây tiếp Ngài khuất đi khỏi mắt họ.

Lòng tin của chúng ta không bị rơi vào tình trạng vô vọng, khi Đức Chúa Jesus, Ngôi Lời của Đức Chúa Trời, không còn ở thế gian. Vì Ngài chính là Đấng Toàn Năng, nên Ngài có thể ở trong lòng của tất cả những người thật lòng tiếp nhận Ngài làm Vị Cứu Tinh của mình; đồng thời Ngài vẫn ở cõi Trời vinh quang (Giăng 14:21, 23) “Ai có các điều răn của Ta và vâng giữ, ấy là người yêu mến Ta. Người nào yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu thương, Ta cũng sẽ yêu thương người, và bày tỏ chính Ta cho người.” …  23 Đức Chúa Jêsus đáp: Nếu ai yêu mến Ta thì sẽ vâng giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu thương người, Chúng Ta sẽ đến cùng người và ở với người.“–

Ngài hứa sẽ sai Đức Thánh Linh của Ngài đến ở với người tin (Giăng 14:16–17) “Ta sẽ cầu xin Cha, Ngài sẽ ban cho các con một Đấng An Ủi khác để ở với các con đời đời, tức là Thần Chân Lý mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì không thấy và không biết Ngài. Nhưng các con biết Ngài vì Ngài đang ở với các con, và sẽ ở trong các con;” nên Thánh Linh đã giáng lâm và ngự đầy dẫy trên những môn đồ trung tín chờ đợi tiếp nhận (Công vụ 2:1–4) “Đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đồ nhóm họp tại một chỗ. Thình lình, có tiếng động từ trời đến như tiếng gió thổi ào ào, đầy khắp nhà môn đồ ngồi. Các môn đồ thấy những lưỡi như lưỡi lửa xuất hiện, tản ra và đậu trên mỗi người trong họ. Tất cả đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, bắt đầu nói các ngôn ngữ khác, theo như Thánh Linh cho họ nói.

Khi Đấng Christ trở lại thế gian để đoán xét kẻ sống và kẻ chết (2Timôthê 4:1a;) “Trước mặt Đức Chúa Trời và Đấng Christ Jêsus, là Đấng sẽ phán xét người sống và kẻ chết.” Những người tin sẽ được cất lên ở với Chúa của mình (1Têsalônica 4:16–17) “Vì khi có hiệu lệnh ban ra, với tiếng gọi của thiên sứ trưởng, cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời thì chính Chúa từ trên trời sẽ giáng lâm. Bấy giờ, những người chết trong Đấng Christ sẽ sống lại trước tiên. Kế đến, chúng ta là người đang sống mà còn ở lại sẽ cùng được cất lên với những người ấy trong đám mây để gặp Chúa tại không trung, và chúng ta sẽ ở với Chúa mãi mãi.

Đối với những người nghe giải thích về Tin Mừng, họ chỉ cần tin vào Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa đang hiện hữu. Họ nhận biết mình đã phạm tội với Trời và không có khả năng tự cứu rỗi, mà phải nhờ một Vị Cứu Tinh có thể chuộc tội cho họ, là Đức Chúa Jesus, Đấng Cứu Thế; vì Ngài đã chịu cái án chết thay thế cho mọi người phạm tội rồi. Lòng tin lúc ban đầu chỉ cần hiểu biết và tin các vấn đề căn bản trong ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Vì vậy cho nên đức tin chân thành đơn giản được gọi là bí quyết để được cứu độ. Tuy nhiên, đức tin không dừng lại ở các vấn đề căn bản mà phải tăng trưởng ngày càng hơn. Nhất là những ai ưa muốn và dự định truyền rao ơn cứu rỗi của Chúa, cho những người quen biết với mình mà chưa tin Chúa, thì phải hiểu rõ điều mình tin.

Đức tin của chúng ta không phải là tin những điều hoang đường vô lý, nhưng biết chắc điều mình tin là có thật. Bằng cớ phải có để chứng minh sự thật ấy chính là sự biến đổi trong lòng bởi quyền phép của Thánh Linh Đức Chúa Trời hành động trong tâm linh. Giống như người mù khi xưa bị giới lãnh đạo Do-thái-giáo buộc phải nói Đức Chúa Jesus là người có tội, đã tuyên bố: “… Tôi không biết ông ấy có phải là kẻ có tội hay không. Nhưng chỉ biết một điều, ấy là trước tôi đã mù mà bây giờ thấy được” (Giăng 9:25).

Hoặc Phaolô đi rao giảng những điều mà trước kia ông tận lực phá hủy (1Timôthê 1:13, 15–16) “Dù trước đây ta vốn là kẻ phạm thượng, bắt bớ, xấc láo. Nhưng ta đã nhận ơn thương xót, vì lúc ấy ta đã hành động một cách ngu muội do lòng vô tín.  Đây là lời chắc chắn và hoàn toàn đáng tiếp nhận: Đấng Christ Jêsus đã đến trong thế gian để cứu vớt tội nhân; trong những tội nhân đó, ta là người đứng đầu. Sở dĩ ta nhận được ơn thương xót là để Đấng Christ Jêsus tỏ bày sự nhẫn nhục trọn vẹn của Ngài đối với ta, là tội nhân hàng đầu, dùng ta làm gương cho những ai sẽ tin Ngài để được sự sống đời đời.” Chính quyền năng biến đổi làm cho con người tội lỗi cũ trở thành người mới lương thiện và thánh khiết là bằng cớ chắc chắn, mặc dù mắt ta không thấy Chúa.

Những ai đã được kinh nghiệm sự đổi mới trong lòng, thì người ấy biết điều mình tin là thật, không phải là chuyện hão huyền. Người thật sự có đức tin đặt vào Chúa thì niềm tin của người ấy không bao giờ bị lung lay. Trong lúc chúng ta còn sống ở thế gian giữa một xã hội đầy lý thuyết vô tín và ngang ngược, nếu đức tin không vững vàng, chúng ta dễ bị những lý thuyết nghi ngờ làm cho lòng tin bị chao đảo. Nhưng, bất cứ ai đã được Chúa thăm viếng và bày tỏ quyền năng đặc biệt thì những kinh nghiệm và biến cố ấy được xem như những cái neo vững chắc giữ chặt thuyền đức tin giữa sóng gió bão tố của biển đời. Đức tin thật không phải là sự hi vọng mơ hồ vào một thứ ảo tưởng, nhưng là sự tin cậy vững vàng của điều mình biết chắc là có thật.

Đức Chúa Jesus đã từng cụ thể hóa đức tin để các môn đồ Ngài có niềm hi vọng (Mathiơ 17:20) “Ta nói rõ với các con: Nếu các con có đức tin chỉ bằng một hạt cải thì các con có thể bảo hòn núi nầy rằng: ‘Hãy dời từ đây qua đó’ thì nó sẽ dời; và chẳng có điều gì các con không làm được!” Theo ý Ngài dạy thì người tin chỉ cần một chút đức tin thành thật, dù nó chỉ nhỏ bằng hột cải, cũng đủ để dời các trở lực lớn như ngọn núi. Một lần khác, Ngài cũng phán dạy rõ ràng về loại đức tin không nghi ngờ (Mathiơ 21:21–22) “Đức Chúa Jêsus đáp: Thật, Ta bảo các con, nếu các con có đức tin và chẳng hề nghi ngờ thì không những các con làm được điều Ta đã làm cho cây vả, mà ngay cả việc bảo hòn núi nầy rằng: ‘Hãy nhấc mình lên và lao xuống biển’ thì điều đó cũng sẽ xảy ra. Trong khi cầu nguyện, bất cứ điều gì các con lấy đức tin mà cầu xin đều sẽ nhận được cả.

Làm thế nào để có loại đức tin ấy? Bí quyết trong việc nầy không phải là cậy vào sức mạnh của lòng tin của chính mình, nhưng là tin chắc chắn rằng Đức Chúa Trời là Đấng có thật sẽ thưởng cho những ai thật lòng tìm kiếm Ngài (Hêbơrơ 11:6) Không có đức tin thì không thể nào làm hài lòng Đức Chúa Trời; vì người nào đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng Ngài thực hữu, và Ngài là Đấng ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài. Giêrêmi 29:13) “Các con sẽ tìm Ta và gặp được, khi các con tìm kiếm Ta hết lòng.” Chỉ cần tin Chúa một cách thành thật và hết lòng tìm kiếm Ngài thì Ngài sẽ bày tỏ sự thực hữu, quyền năng và những dấu kỳ phép lạ mà chúng ta không thể mường tượng nổi.

Những dấu kỳ và phép lạ mà Chúa bày tỏ nhằm giúp con cái Ngài càng vững lòng tin hơn chứ không nhằm giúp chúng ta khoe khoang, biểu diễn, hoặc lên mình kiêu ngạo! Vì vậy, mỗi lần đứng trước các sự thử thách, thất bại, ngã lòng, nghi ngờ, hay tuyệt vọng, thì những việc Chúa đã thực hiện, can thiệp, và bày tỏ trong đời, là bằng cớ khiến cho người kêu cầu Ngài càng vững lòng tin, và các việc đó cũng xác nhận một cách đanh thép rằng: “Đức tin là sự xác quyết về những điều mình đang hi vọng, là bằng chứng của những điều mình chẳng xem thấy” (Hêbơrơ 11:1).

HuongDiMoi13.docx

MS CTB