Theo Dõi Tận Thế, bài 15

2Các Vua 17:13–18

Tuy thế, Đức Giê-hô-va đã dùng các nhà tiên tri, các nhà tiên kiến cảnh cáo Israel và Giu-đa rằng: Hãy quay khỏi đường lối gian ác của các ngươi! Hãy tuân giữ điều răn và luật lệ của Ta, đúng theo toàn thể luật pháp mà Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi, và mọi điều Ta đã dùng đầy tớ Ta là các nhà tiên tri phán bảo các ngươi.

14Nhưng họ không chịu nghe và cứng cổ như các tổ phụ của họ, là những người không tin vào Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình.

15Họ đã xem thường các luật lệ của Ngài cũng như giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ họ, và họ cũng xem thường những lời cảnh cáo mà Ngài đã phán với họ. Họ đi theo các thần hư không và chính họ cũng trở thành hư không. Họ bắt chước các dân tộc chung quanh, là những dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã truyền họ không được làm theo chúng.

16Họ loại bỏ tất cả điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, đúc cho mình hai tượng bò con, làm tượng nữ thần Ashera, thờ lạy tất cả các thiên thể, và thờ phượng Baal.

17Họ đưa con trai con gái mình qua lửa để tế thần. Họ dùng tà thuật, tin bói khoa, và tự bán mình để làm điều dữ dưới mắt Đức Giê-hô-va mà chọc giận Ngài.

18Vì thế, Đức Giê-hô-va rất giận dân Israel và loại bỏ họ khỏi mặt Ngài, chỉ còn lại chi tộc Giu-đa mà thôi.

Lịch sử của dân Israel ngày xưa có nhiều giai đoạn rất đau buồn. Sau khi được Đức Chúa Trời đem vào đất hứa, họ ở đó cho tới ngày bị đế quốc Assyria thôn tính; toàn dân Israel, ngoại trừ hai chi tộc Giu-đa và Benjamin, bị đày qua nước Assyria xa xăm, không bao giờ được trở về quê cũ nữa. Nếu nhìn theo quan điểm loài người vào mỗi biến cố làm thay đổi số phận của cả một dân tộc trên thế gian, thì người ta chỉ nhìn vào nguyên do thấy được, không biết linh giới dính líu như thế nào. Ví dụ, sau khi nước Việt không chống nổi vài chiến thuyền Pháp, thời sau quy lỗi rằng triều đình Huế quá thủ cựu, đui mù về thế giới, kém hẳn nước Nhật biết tiếp thu ánh sáng văn minh.

Bề ngoài rõ ràng là vậy, nhưng cái gì đã dìm cả dân tộc Việt trong sự tối tăm của tính thủ cựu xem nước Tàu là mẫu mực để noi theo? Cái gì từ bên Tàu truyền sang đã trói toàn xã hội Việt Nam trong bóng tối mê tín không thể thoát ra được? Người Việt lúc ấy tá hỏa vì con rồng cháu tiên, phù đổng thiên vương, nỏ thần, rồng bay lên mây, gươm báu thần rùa, vv., chỉ là những chuyện thần tiên huyễn hoặc không thể giúp nước Việt thắng súng đạn Tây phương văn minh; tuy vậy, dân Việt vẫn bị quyền lực tối tăm tiếp tục dìm sâu vào bóng tối mê tín, khiến họ chưa nhận ra các nguyên nhân nào đã khiến tai họa giáng xuống nước Việt từ năm nầy qua năm nọ không bao giờ dứt.

Dân Israel dưới sự che chở và bảo vệ của Đức Chúa Trời từ khi chỉ là một gia đình 70 người kiều dân tại Ai-cập, đã được ban cho lãnh thổ riêng, trở thành vương quốc rất hùng cường trong đời vua Solomon. Sự thăng trầm của họ trong lịch sử luôn luôn gắn chặt vào thái độ kính thờ hay xa cách Đức Chúa Trời. Sau khi được bình an và no ấm, dân Israel dần dần lìa bỏ sự thờ kính Chúa như lời Ngài truyền, bắt chước các dân tộc lân bang thờ các thần Baal và Astarte cùng những thứ tà thần gớm ghiếc khác. Họ quên rằng hình thức thờ phượng thời Cựu Ước dâng hiến sinh tế, do Đức Chúa Trời truyền dạy, không phải để xin ơn phước, nhưng mục đích là xưng tội và chuộc tội.

Nhưng người ta nghĩ khác, vì muốn các thần linh đoái hoài ban ơn cho họ mùa màng dư dật, đời sống sung túc, có đông con cái hơn, thì họ tin rằng thần linh đòi hỏi lòng thành của họ qua các lễ vật con thú hiến tế. Nhưng sự hoành hành của các thế lực tối tăm trong linh giới không ngừng lại đó. Chúng đòi hỏi người thờ phượng chúng phải dâng sinh tế bằng mạng người. Họ cũng quên Đức Chúa Trời không đòi hỏi phải dâng sinh tế thì Ngài mới ban phước, Ngài chỉ đòi hỏi lòng ăn năn thống hối, quyết tâm từ bỏ tội lỗi, dấu hiệu của lòng chân thành được biến đổi là đủ

(Thi-Thiên 51:15–17) “Chúa ơi, xin mở môi con và miệng con sẽ truyền ra sự ca ngợi Chúa. Vì Chúa không ưa thích sinh tế, dù con có hiến dâng. Tế lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa. Sinh tế đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm linh đau thương; Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu.

Vì thiên đàng chỉ chấp nhận sự thánh thiện không bị ô nhiễm bởi ước muốn trần tục kèm theo. Nhưng người Israel không chịu ăn năn, tinh thần ngấm ngầm bội đạo đã ngăn trở họ.

Vì vậy, Israel bị các lân bang lôi cuốn theo sự thờ cúng các tà thần có hình tượng. Tại những miếu thờ các thần Baal có các tế sư trông coi việc hiến tế bằng sinh mạng và thể xác trẻ con; người Israel cũng bắt chước dân ngoại dùng con cái của họ làm sinh tế dâng cho tà thần để mong được ban nhiều phước lành hơn và có đông con hơn. Israel đã quên những lời Đức Chúa Trời dặn dò và nghiêm cấm họ không được dùng con cái mình hiến tế cho tà thần:

(Lê-vi-ký 18:21) “Không được đem con cái mình dâng cho thần Moloch, vì làm như thế là xúc phạm đến danh Đức Chúa Trời mình. Ta là Đức Giê-hô-va.

(Phục Truyền 12:31) “Anh em không được làm như thế đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời vì Đức Giê-hô-va ghét các việc ghê tởm mà chúng đã làm cho các thần của chúng. Chúng thiêu cả con trai và con gái mình trong lửa để tế các thần của chúng.

Việc thiêu con mình để tế thần không phải chỉ là hàng thứ dân phạm tội, mà vua cũng phạm y như vậy:

(2 Các Vua 16:3) “Nhưng vua đi theo đường lối của các vua Israel, thậm chí đưa con mình vào lửa để tế thần, theo thói tục ghê tởm của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi dân Israel.

Thứ dân cũng bắt chước vua:

(2 Các Vua 17:16–18) “Họ loại bỏ tất cả điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, đúc cho mình hai tượng bò con, làm tượng nữ thần Ashera, thờ lạy tất cả các thiên thể, và thờ phượng Baal. Họ đưa con trai con gái mình qua lửa để tế thần. Họ dùng tà thuật, tin bói khoa, và tự bán mình để làm điều dữ dưới mắt Đức Giê-hô-va mà chọc giận Ngài. Vì thế, Đức Giê-hô-va rất giận dân Israel và loại bỏ họ khỏi mặt Ngài, chỉ còn lại chi tộc Giu-đa mà thôi.

Người thời nay không thể tưởng tượng nổi tục lệ tín ngưỡng man rợ của đạo thờ Moloch vào thời ấy; nhưng rất thản nhiên chấp nhận hình thức hiến tế nhân mạng trong thời đại mới qua phong trào tranh đấu quyền giết các thai nhi bất lực trong dạ con của các bà mẹ, những người không muốn sinh con để khỏi bị vướng bận và mất công nuôi dạy. Người có lương tâm sẽ rất ngạc nhiên khi thấy những người mình từng quen biết lại hăng hái tranh đấu cho phong trào nữ quyền được tự do phá thai tới tận giờ sinh, và nếu hài nhi sống sót ra đời khi không kịp phá, nó sẽ bị kín đáo giết chết hoặc để cho chết. Một phụ nữ từng trông coi hàng chục ngàn vụ phá thai tên là Patricia Waird-Bindle tuyên bố: “Phá thai là ơn phước lớn và là thánh tích trong tay phụ nữ.

Một phụ nữ khác, Ginette Paris, tác giả quyển “The Sacrament of Abortion” (Thánh Tích Phá Thai) thì viết: “Chọn sự phá thai không phải là vô đạo đức; nó chỉ đơn giản là một thứ đạo đức khác, đạo đức ngoại giáo. Văn hóa của chúng ta cần các lễ nghi cũng như luật pháp mới để phục hồi sự phá thai theo chiều kích thánh của nó.” Vậy chiều kích thánh của sự phá thai là gì? Người nầy nói huỵch toẹt: “Phá thai là một hiến tế cho thần Artemis. Phá thai là một thánh tích của phần thưởng sự sống để duy trì sự thanh khiết.” Chẳng phải chỉ một mình tác giả nầy, nhiều phụ nữ giữ vị trí hàng đầu ủng hộ quyền phá thai cũng moi đủ lý do có vẻ chính đáng để biện hộ, nói rằng phá thai được xem như là hình thức hiến tế trẻ con vào thời cổ, và là lễ vật dâng lên cho thần Baal.

Mặc dù vào thời đó, người ta giả điếc trước tiếng khóc thét hãi hùng của những đứa trẻ bị đưa qua lửa làm tế lễ thiêu, nhưng Đức Chúa Trời không điếc như họ tưởng. Máu của trẻ con vô tội bị giết để làm sinh tế cho các tà thần đã dẫn đất nước Israel tới trước tòa phán xét của Đức Chúa Trời. Lịch sử của Israel trong quá khứ đã chứng minh điều đó sau khi họ đã được nhiều nhà tiên tri cảnh cáo và nhắc nhở trong hơn hai thế kỷ mà họ không chịu nghe. Kinh thánh chép:

(Giê-rê-mi 5:6b, 9) “Vì tội lỗi của họ rất nhiều, sự bội bạc của họ vô kể. … ‘Ta sẽ không trừng phạt chúng về những tội đó sao? Một dân tộc như thế mà Ta không báo thù sao?’ Đức Giê-hô-va phán vậy.

Xã hội Hoa kỳ ngày nay có một số lớn tín đồ đạo Chúa đã công khai bội đạo, từ chối sự hướng dẫn của Ngài, cứ lo thỏa mãn sự đòi hỏi không dứt của lạc thú xác thịt, kịch liệt ủng hộ thực hiện quyền phá thai, một hình thức dùng sinh mạng của thai nhi và trẻ thơ làm lễ vật hiến tế cho các thứ thần Baal tân thời, tức là phục vụ ý thích dâm dục không giới hạn. Những gì dân Israel thời xưa đã làm, thì ngày nay một nước được thành lập trên nền tảng kính sợ Đức Chúa Trời của Kinh Thánh, được Ngài ban phước cho trở thành cường quốc mạnh nhất thế giới, cũng phạm những tội nặng giống như Israel thời trước. Israel đã dần dần từ bỏ Đấng Bảo Vệ mình, thì Hoa kỳ cũng vậy. Họ đã đuổi Đức Chúa Trời ra khỏi đời sống xã hội của nước Mỹ, và ngày càng dấn sâu vào tội ác.

Những ai đọc lịch sử Israel trong Kinh Thánh một cách kỹ lưỡng, rồi nhận xét các hình thức tội ác của xã hội Mỹ trong thời hiện tại, sẽ thấy có sự trùng hợp đáng kinh ngạc. Lịch sử của Israel thời ấy giống như khuôn mẫu mà ngày nay Hoa kỳ đã rập khuôn làm theo; người ta không hiểu rằng Israel ngày xưa là tuyển dân của Đức Chúa Trời trong thời Cựu ước, còn Hoa kỳ ngày nay là một nước do Chúa thành lập và bảo vệ, ban phước. Cho nên, những gì đã diễn ra trong lịch sử Israel, cũng diễn ra trong lịch sử Hoa kỳ. Nghĩa là các nguyên nhân khiến cho tai họa giáng trên Israel, nếu con dân Chúa ngày nay không chịu lấy đó làm gương, thì cũng sẽ bị họa y như vậy.

Nếu tội lỗi đã hủy diệt một nước được Chúa ban phước, rồi họ bị khổ nạn hơn hai ngàn năm, thì tội lỗi ngày nay sẽ dẫn tới ngày tận thế. Lần nầy người ta không có cơ hội hồi phục. Chúng ta hãy lấy đó làm gương để cảnh tỉnh chính mình và gia đình khỏi tai họa sẽ đến khắp thế gian.

TheoDoiTanThe15.docx

Rev. Dr. CTB