Theo Dõi Tận Thế, bài 22

Khải Huyền 2:1–7

Hãy viết cho thiên sứ của Hội Thánh Ê-phê-sô rằng: Đây là lời phán của Đấng cầm bảy ngôi sao trong tay phải, và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng: 2‘Ta biết các công việc của con, sự khó nhọc của con, sự kiên nhẫn của con. Ta biết con không thể dung chịu những kẻ xấu, và đã thử những người tự xưng là sứ đồ mà không phải là sứ đồ, và con đã nhận ra rằng họ là những kẻ nói dối. 3Con nhẫn nại, chịu đựng vì danh Ta không chút mệt mỏi. 4Nhưng điều Ta trách con, ấy là con đã bỏ lòng kính mến ban đầu. 5Vậy, hãy nhớ lại con đã sa sút từ đâu! Hãy ăn năn và làm lại những công việc ban đầu. Nếu không ăn năn, Ta sẽ đến với con và truất bỏ chân đèn của con khỏi chỗ nó. 6Tuy nhiên, con được điều nầy: Ấy là con ghét những công việc của nhóm Nicolas, mà Ta cũng ghét nữa.’ 7Ai có tai, hãy nghe lời Thánh Linh phán với các Hội Thánh: ‘Người nào thắng, Ta sẽ cho ăn trái cây sự sống trong Paradis của Đức Chúa Trời.’

Từ khi Hội Thánh của Đức Chúa Jesus được thành lập tại Jerusalem, xứ Do-thái, Kinh Thánh Tân Ước dùng tên của thành phố địa phương làm tên của Hội Thánh ở địa phương đó. Vì vậy, thư đầu tiên trong số bảy thư của Đức Chúa Jesus gửi cho các Hội Thánh là thư gửi cho thiên sứ của Hội Thánh Ngài tại thành phố Ephesus, nên được gọi là thư gửi Hội Thánh Êphêsô. Ephesus có nghĩa là “đáng mến chuộng” và là một thành phố hải cảng ở phía Tây của bán đảo Tiểu Á, bên bờ biển Aegean, bây giờ thuộc nước Thổ nhĩ kỳ. Ephesus nổi tiếng bởi đền thờ nguy nga rộng lớn thờ nữ thần Artemis, cũng gọi là Diana, một trong bảy kỳ quan thế giới thời cổ. Theo truyền thuyết thần thoại Hy-lạp thì Artemis là con gái của thần Zeus và là chị em song sinh với thần Apollo.

Từ một thành phố được xem là trung tâm ma thuật của vùng Tiểu Á, Ephesus đã trở thành một nơi có Hội Thánh mạnh mẽ, tiêu biểu cho thời kỳ Hội Thánh sơ lập của thế kỷ đầu tiên, gồm cả thời kỳ được chép trong sách Công Vụ các Sứ Đồ, thường được gọi là “Hội Thánh thời các sứ đồ.” Thư gửi cho thiên sứ của Hội Thánh ở Ephesus vào giai đoạn mà lòng nhiệt thành của tín hữu bùng cháy cho Đức Chúa Jesus Christ, vốn hưng phấn như mối tình đầu của tình yêu trai gái, đã bắt đầu tàn tắt. Lòng nhiệt thành ấy được Chúa khen ngợi trong các câu (2–3) “Ta biết các công việc của con, sự khó nhọc của con, sự kiên trì của con. Ta biết con không thể dung chịu những kẻ xấu, và đã thử những người tự xưng là sứ đồ mà không phải là sứ đồ, và con đã nhận ra rằng họ là những kẻ nói dối. Con kiên trì, chịu đựng vì danh Ta không chút mệt mỏi.

Chúa mô tả Ngài là Đấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu, đi giữa bảy chân đèn vàng (1) “Hãy viết cho thiên sứ của Hội Thánh Ê-phê-sô rằng: Đây là lời phán của Đấng cầm bảy ngôi sao trong tay phải, và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng,” là thông điệp gửi đến cho mọi Hội Thánh biết rằng Ngài đang ở giữa họ và mục sư của các Hội Thánh đều ở trong tay Ngài.

Rõ hơn nữa, lời phán: “Ta biết công việc của con,” nghĩa là không việc gì có thể giấu khỏi mắt Chúa. Có những việc tín hữu làm vì Chúa, cũng có những việc họ làm do bổn phận và trách nhiệm thúc đẩy, cũng có việc hăng hái làm vì danh vọng hão. Lúc ấy Ephesus là hải cảng lớn thứ ba của đế quốc La mã. Phaolô, Apôlô, Timôthê, rồi Giăng nối tiếp nhau làm giám mục tại đây. Giăng đã đem bà Mary, mẹ phần xác của Đức Chúa Jesus, về phụng dưỡng, và bà qua đời ở nơi nầy. Ngày nay miễu thờ cúng bà vẫn còn tại thành phố ấy.

Chúa khen sự khôn ngoan và nhạy bén của Hội Thánh Êphêsô biết nhận ra các sứ đồ giả mạo. Ngài khen họ đã chịu khó nhọc, nhẫn nại làm việc vì Danh Ngài. Ngài cũng khen họ về lòng thanh sạch, không dung dưỡng tội ác, đã tống cổ bọn sứ đồ giả ra khỏi Hội Thánh. Tuy nhiên, Ngài trách họ đã bỏ lòng kính mến ban đầu đối với Ngài (4–5) “Nhưng điều Ta trách con, ấy là con đã bỏ lòng kính mến ban đầu. Vậy, hãy nhớ lại con đã sa sút từ đâu! Hãy ăn năn và làm lại những công việc ban đầu. Nếu không ăn năn, Ta sẽ đến với con và truất bỏ chân đèn của con khỏi chỗ nó;” họ chịu khó nhọc, nhẫn nại, thánh sạch, không dung dưỡng tội lỗi, chẳng còn là động lực thúc đẩy họ vì yêu Chúa nữa.

Lúc ấy, tín hữu tại Êphêsô thuộc thế hệ thứ nhì; đã 35 năm trôi qua sau khi Phaolô ghé lại từ giã họ lần cuối, khi Giăng chép thư nầy. Hội Thánh có phát triển, nhưng lòng yêu mến ban đầu đối với Chúa đã nguội lạnh dần, sự thờ phượng bắt đầu thiên về nghi lễ hình thức. Từ một Hội Thánh lấy Chúa làm trung tâm, đầy dẫy Đức Thánh Linh, nay nghiêng dần về hoạt động có hình thức giống như tổ chức hội đoàn.

Nhiều tổ chức xưng là Hội Thánh Chúa ngày nay cũng gặp tình trạng tương tự; đại đa số giáo hữu chỉ dự nghi lễ để hi vọng sẽ được bảo đảm một vé về thiên đàng, họ có thể ưa thích hay hăng hái tham gia các hoạt động hội đoàn, xã hội; nhưng mặt quan trọng nhất là mối liên hệ tương giao với Chúa thì hoặc là hiểu biết cách mơ hồ hoặc chưa bao giờ có. Tình trạng của Hội Thánh Êphêsô lúc nhận thư nầy thì khá hơn nhiều so với thái độ vừa đề cập. Cho nên, Đức Chúa Jesus khuyên họ hãy nhớ lại họ đã sa sút từ lãnh vực nào, ăn năn về việc ấy, và phục hồi công việc đã làm lúc ban đầu vì được thúc giục bởi tình yêu mến và biết ơn Chúa (5) “Vậy, hãy nhớ lại con đã sa sút từ đâu! Hãy ăn năn và làm lại những công việc ban đầu. Nếu không ăn năn, Ta sẽ đến với con và truất bỏ chân đèn của con khỏi chỗ nó.

Khi chúng ta không còn tình yêu ban đầu thì không phải vì mình đã đánh mất, nhưng đã bỏ, tìm cái đã mất thì khó, nhưng lấy lại điều đã bỏ thì không khó. Chúa dạy chúng ta cách lấy lại ấy là: Nhớ lại nguyên nhân khiến mình sa sút, ăn năn về việc ấy, và làm lại công việc thuở ban đầu đầy tình yêu mến Chúa. Nghĩa là nhớ lại công việc mình làm cho Chúa vì được thúc đẩy bởi lòng yêu mến Ngài và làm lại việc ấy. Nó phải trở thành ưu tiên cao nhất; có thể đó là tinh thần hăng say học lời Chúa, cầu nguyện, ca hát ngợi khen, phục vụ, hoặc truyền giáo. Hậu quả của việc không làm theo lời khuyên là mất chỗ mình vốn có trong Chúa, nghĩa là không còn sự hiện diện của Ngài. Chúa cảnh cáo “Nếu không ăn năn thì Ta sẽ đến với con và truất bỏ chân đèn của con khỏi chỗ nó” (5b). Đức Chúa Jesus sẽ không ở với Hội Thánh nào không còn yêu mến Ngài nữa.

Chân đèn của Hội Thánh tức là ánh sáng của Chúa để soi sáng cho thế gian đang chìm trong bóng tối. Đây không phải là lời cảnh cáo rằng người tin Chúa sẽ bị mất sự cứu rỗi mà họ có do tin nhận Đức Chúa Jesus. Nhưng, họ sẽ mất lời chứng về sự sống cho một thế gian ngắc ngoải cần sự sống của Đức Chúa Trời. Có bao nhiêu hội chúng hiện nay gặp tình trạng nầy? Nhiều Hội Thánh địa phương hãnh diện về cơ sở mình có, số lượng thành viên, tầm cỡ Hội Thánh so với nhiều chi hội nhỏ chung quanh; hãnh diện về hệ thống thần học, giáo phẩm giỏi, giáo lý, giáo điều không gì sai trật. Nhưng nếu chẳng còn tình yêu đối với Chúa của mình thì làm sao yêu người bị hư mất?

Tuy nhiên, con được điều nầy: Ấy là con ghét những công việc của nhóm Nicola, mà Ta cũng ghét nữa” (6). Chữ Nicola (Nicolaitans) ra từ 2 chữ Hi-lạp ‘Nicao‘ và ‘laos,‘ nghĩa là “thiết lập giới giáo phẩm lên trên tín hữu bình thường.” Hội Thánh Êphêsô ghét việc thiết lập tầng lớp giáo phẩm cao cấp. Chúa nói, Ta cũng ghét nữa! Lý do là Đức Chúa Trời không muốn con cái Ngài cảm thấy mình bị xa cách Ngài, phải nhờ một ai đó đến với Ngài như giới trung gian. Ngài muốn chúng ta đến thẳng với Ngài qua Con Ngài là Đức Chúa Jesus Christ. Vì Đức Chúa Jesus đã mở đường cho mọi người như nhau; cho nên, Đức Chúa Trời không muốn thấy có ai đó đứng cản đường người khác đến với Ngài. ‘Nhóm Nicola‘ là chủ trương thiết lập một giai cấp giáo phẩm, hoặc tăng lữ cầm quyền trên đời sống tâm linh con cái Chúa. Đức Chúa Jesus nói Ngài ghét loại chủ trương ấy.

Theo truyền thuyết thì Nicolas là một trong bảy chấp sự đầu tiên của Hội Thánh, về sau người nầy pha trộn triết học tà giáo Hi-lạp vào giáo lý Hội Thánh. Ông dạy rằng: tâm linh con người luôn luôn thiện hảo, nhưng thể xác người thì vĩnh viễn ác; tâm linh không bị ảnh hưởng do việc làm của thể xác; vì con cái Chúa đã được thanh tẩy tâm linh, nên dù thể xác có sống theo sự ham muốn của lòng thì cũng không ảnh hưởng gì tới sự cứu rỗi. Hội Thánh Êphêsô ghét sự dạy dỗ sai trật ấy, cũng là điều Chúa ghét. Cho nên, hễ giáo lý nào cổ súy chủ trương đó thì hoàn toàn sai trật.

Ai có tai hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội Thánh.” Không phải chỉ nghe qua lời nầy cho biết, rồi không thực hiện gì hết. Câu (1:3) nói rằng ai đọc, nghe và giữ theo những điều chép trong sách thì được phước: “Phước cho người đọc cùng những người nghe lời tiên tri nầy và vâng giữ những điều đã ghi chép trong đó.” Mọi người đều có tai thể chất, nhưng chỉ ai có thính giác thuộc linh để hiểu ý nghĩa thiêng liêng của lời Chúa phán và vui lòng làm theo, mới được hưởng phần thưởng theo lời hứa. “Người nào thắng (Nicao), Ta sẽ cho ăn trái cây sự sống trong Paradis của Đức Chúa Trời.” Chữ ‘thắng‘ (Nicao) trong các thư nầy có nghĩa là thắng trong cuộc tranh đấu chống nghịch nhau giữa hai phía. Như vậy, đây là sự chiến đấu chống bản ngã xác thịt để không mệt mỏi hầu việc Chúa, giữ được lòng kính mến ban đầu, và không bị quyền lực tổ chức tôn giáo kềm hãm mình. Để thắng, tín hữu phải có tâm linh nhạy bén để có thể “nghe” sự chỉ dẫn của Đức Thánh Linh cho chính mình.

Ý nghĩa tiên tri của thư gửi cho Hội Thánh Êphêsô là giai đoạn lịch sử của Hội Thánh Chúa từ năm AD 33 tới AD 100. Đây là Hội Thánh lý tưởng của thời sơ lập sau khi nhận được báp têm và đầy dẫy Đức Thánh Linh, mọi người đều nhận được quyền năng và có lòng yêu mến Chúa nhiệt thành như lửa bùng cháy. Họ đã vui chịu hoạn nạn rao truyền phúc âm ra mọi nơi. Đây là thời kỳ sứ đồ Phaolô đã thực hiện nhiều vòng truyền giáo, cũng như nhiều sứ đồ khác rao giảng tin mừng ra mọi nơi họ bị tản lạc. Nhưng qua thế hệ thứ nhì thì mối tương giao ấy chỉ còn là việc làm chăm chỉ vì nghĩa vụ chứ không phải vì tình yêu mến Chúa nữa. Ngày nay, chúng ta cũng hãy nhớ lại mình đã sa sút, bỏ tình yêu Chúa từ lúc nào? Hãy ăn năn, phục hồi để được Ngài ban phần thưởng.

TheoDoiTanThe22.docx

Rev. Dr. CTB