Theo Dõi Tận Thế, bài 39

Khải Huyền 9:1–21

Khi vị thiên sứ thứ năm thổi loa, thì ông Giăng thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất (1). Để hiểu ý nghĩa của việc nầy, trước hết chúng ta phải tìm ý nghĩa của ngôi sao rồi mới giải nghĩa được khải tượng mà ông Giăng thấy. Đôi khi ngôi sao được dùng để chỉ về một ai đó có ngôi vị cao hơn người thường. Ở đầu sách Khải Huyền, 1:20 nói rằng “Đây là sự mầu nhiệm về bảy ngôi sao mà con thấy trong tay phải Ta, và bảy chân đèn bằng vàng: Bảy ngôi sao là các thiên sứ của bảy Hội Thánh, còn bảy chân đèn là bảy Hội Thánh.” Theo lời Đức Chúa Jesus giải nghĩa thì các ngôi sao tượng trưng cho thiên sứ. Vậy, ngôi sao ông Giăng thấy từ trời rơi xuống không phải là một thiên thể. Ngôi sao ấy là một thần linh hay thiên sứ phải bị đuổi hoặc bị ném khỏi thiên đàng.

Luca 10:18 Đức Chúa Jêsus phán với họ: Ta đã thấy quỷ Satan từ trời sa xuống như chớp.” Có vài sự giải thích về thời điểm Satan từ trời sa xuống, nhưng chữ ‘đã’ nói về thời quá khứ, không phải ngay thời điểm Đức Chúa Jesus tiết lộ việc đó. Khải Huyền 12:9 nói rằng “Con rồng lớn bị ném xuống, tức là con rắn xưa, được gọi là ma quỷ hay Satan, kẻ lừa dối cả nhân loại. Nó đã bị ném xuống đất; các sứ giả của nó cũng bị ném xuống với nó,” cũng là việc quá khứ. Vậy, ngôi sao từ trời rơi xuống đất sau tiếng loa thứ năm có phải là Satan không? Bởi vì các đoạn 12 tới 14 là phần chú thích; cho nên, vị thiên sứ từ trời rơi xuống không phải là Satan mà là một thiên sứ khác bị lìa thiên đàng vào thời kỳ tận thế. Vị thiên sứ ấy được ban cho chìa khoá cửa của vực sâu.

Có vài người dịch chữ ‘abyss’ là vực sâu không đáy, thật ra nghĩa của nó là vực sâu, nơi giam giữ các thứ quỷ. Ví dụ, khi Đức Chúa Jesus đuổi một lữ đoàn quỷ ra khỏi một người ở Gerasenes, thì “các quỷ nài xin Ngài đừng đuổi chúng xuống vực sâu” (Luca 8:31). Nếu lũ quỷ sợ bị giam ở vực sâu, thì nơi đó chúng bị khổ sở. Bây giờ, ngôi sao, tức là thiên sứ, “mở vực sâu thì có khói từ vực sâu bay lên như khói của một lò lửa lớn; mặt trời và không gian bị u ám bởi khói của vực sâu ấy. Từ luồng khói đó có những châu chấu bay ra khắp đất, và chúng được ban cho năng lực giống như năng lực của bọ cạp trên đất vậy. Chúng được bảo đừng làm hại cỏ trên đất, các loại tươi xanh và cây cối mà chỉ làm hại những người không có ấn của Đức Chúa Trời ở trên trán. Chúng không được phép giết chết, nhưng được phép hành hạ họ trong năm tháng. Sự đau đớn do chúng gây ra giống như sự đau đớn của người bị bò cạp chích. Trong những ngày ấy, người ta sẽ tìm kiếm sự chết mà không gặp; họ mong được chết nhưng sự chết tránh xa.” (2–6).

Châu chấu ở chỗ nầy cũng chẳng phải là loại châu chấu thiên nhiên cắn phá thực vật. Chúng là lũ tà ma bị giam giữ từ lâu đời, chúng rất căm giận, cho nên sẵn sàng hại loài người. 2Phierơ 2:4Giuđe 6 cho biết rằng các thiên sứ phạm tội bị xiềng xích nơi vực sâu tối tăm để chờ ngày phán xét. Các câu (7–11) mô tả rõ loại ‘châu chấu’ nầy hình dạng dị thường, “giống như ngựa sẵn sàng cho chiến trận. Trên đầu chúng có cái gì giống như mão miện bằng vàng; mặt chúng như mặt người, tóc như tóc phụ nữ, răng như răng sư tử” (7–8); đuôi chúng có nọc giống như bò cạp, những đuôi ấy có sức mạnh làm hại loài người trong năm tháng. Chủ tướng của chúng là Apolyon, nghĩa là kẻ huỷ diệt, cũng có tên là sứ giả vực sâu, một tà thần rất cao cấp dưới quyền của satan (9–11).

Còn những người có dấu ấn của Đức Chúa Trời và Chiên Con trên trán thì chúng đã được lệnh không cho phép động tới. Ngày nay, trong thời gian chúng ta chưa được rước về trời, vẫn còn phải đối diện với tội lỗi và vô số tà ma chung quanh mình, nhưng uy quyền của những người có ấn của Đức Thánh Linh trong lòng vẫn rất lớn trên lũ tà ma của thế giới tối tăm. Nếu ai không hiểu điều đó mà khinh thường không mời Đức Thánh Linh đến hiện diện trong lòng, thì dù rằng biến cố đại nạn chưa diễn ra, những người ấy vẫn thường xuyên bị tà ma hành hại. Còn những ai cứ ở trong Chúa bằng mối liên hệ mật thiết với Ngài trong cuộc sống hàng ngày, thì Đức Thánh Linh ngự trong lòng những người đó là uy quyền vô địch không cho phép tà ma hãm hại con cái Ngài.

Tiếng loa thứ năm đem tai họa vô cùng đau đớn cho người trần gian kéo dài trong năm tháng. Nhưng vẫn còn hai tiếng loa nữa sẽ phải thổi lên; cho nên Kinh Thánh chép: “Khổ nạn thứ nhất đã qua. Nầy, còn hai khổ nạn nữa đang đến” (12). Khi thiên sứ thứ sáu thổi kèn thì có tiếng nói từ bốn góc, tức là bốn cái sừng, của bàn thờ bằng vàng ở trước ngai Đức Chúa Trời (13); tiếng ấy bảo thiên sứ thứ sáu đang cầm loa: “Hãy thả bốn thiên sứ đang bị trói tại sông lớn Ephrates ra.” Khi bốn thiên sứ ấy được thả ra thì “họ đã sẵn sàng cho giờ, ngày, tháng, năm ấy để giết chết một phần ba loài người” (14–15). Tiếng nói từ bốn góc bàn thờ tượng trưng cho sự không hài lòng của thiên đàng về tội lỗi của trần gian; cho nên, bốn vị thiên sứ đang bị cầm giữ ở khu vực sông Euphrates sẽ được thả ra để giết chết một phần ba loài người còn lại lúc đó.

Bốn vị thiên sứ nầy không phải là bốn vị thiên sứ cầm giữ bốn hướng gió như đề cập ở phần trước (7:1). Việc họ bị trói ở khu vực sông lớn Euphrates phải có ý nghĩa đặc biệt. Có thần học gia giải nghĩa rằng vì Chính Thống Giáo là thế lực chính ở vùng đó; mà họ chủ trương thờ hình tượng, là điều Đức Chúa Trời ghê tởm. Sông Euphrate, ranh giới chia đông và tây, là đất bội phản từ thời thượng cổ. Nơi ấy cũng là đồn lũy của Hồi giáo nữa. Ở thời điểm nào đó, bốn thiên sứ chuyên huỷ diệt bị cầm giữ ở chỗ nầy. Bây giờ sau tiếng loa của vị thiên sứ thứ sáu, họ được thả ra để giết chết thêm 1/3 số người còn sống sót. Nếu cộng với 1/4 nhân loại bị chết sau khi Chiên Con mở ấn thứ tư và nhiều người chết sau tiếng loa thứ ba được thổi, thì số người trên thế giới đã chết hơn một nửa. Thế mà người ta vẫn không chịu ăn năn tội lỗi và sự thờ lạy hình tượng của họ (20–21).

Ngày nay chúng ta thấy lòng người rất cứng cỏi và gian ác không thể tưởng tượng nổi. Qua lập trường của bọn người chủ trương phóng túng và đảng chính trị đại diện cho họ, người ta thấy họ bất kể lẽ phải hay đạo lý, chúng điên cuồng theo đuổi dục vọng. Thực tế ấy nhắc nhở chúng ta rằng, những người đã cố ý sa vào tội lỗi thì rất khó ăn năn. Ông Giăng nghe rõ con số của đạo quân kỵ binh gây chiến tranh là 200 triệu (16). Người ta tin rằng chỉ có quân đội của Trung Hoa đỏ mới đáp ứng đúng con số. Rồi ông Giăng mô tả màu sắc áo giáp của những người lính (17a) phù hợp với màu quân phục nguỵ trang hiện nay của hầu hết các quân đội trên thế giới.

Khi ông Giăng mô tả những con ngựa mà những người lính ấy cỡi (17b–19) thì người ta mường tượng tới hình ảnh các loại chiến xa có pháo tháp với súng đại bác và súng máy. Những hình ảnh mà Giăng thấy đều là các biểu tượng. Vì dù được cho thấy những hình ảnh thật, nhưng với sự hiểu biết của người 2,000 năm trước, Giăng không thể hiểu và không đủ ngôn ngữ để diễn đạt những gì ông được thấy. Ông mô tả từ miệng ngựa “phun ra lửa, khói và lưu huỳnh. Một phần ba loài người bị giết vì ba tai nạn nầy, đó là: lửa, khói và lưu huỳnh ra từ miệng ngựa” (17b–18). Nghĩa là bom đạn chiến tranh lúc ấy sẽ giết chết một phần ba loài người.

Ông Giăng không đủ ngôn ngữ để mô tả những việc quá mới chưa có vào thời kỳ lịch sử ấy, nên ông diễn giải rằng “Vì sức mạnh của ngựa ở trong miệng và đuôi của chúng; đuôi chúng giống như đầu rắn và chúng dùng đầu ấy gây tội ác” (19). Họng súng đại bác trên các chiến xa được xem như miệng ngựa; còn súng đại liên bắn về phía sau và hai bên là đuôi giống như đầu rắn. “Phần còn lại của loài người, những người không bị giết bởi các tai nạn nầy, vẫn không ăn năn những công việc của tay họ, cũng không từ bỏ việc thờ lạy các quỷ, các hình tượng bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng đá, bằng gỗ là những hình tượng không thể thấy, nghe hoặc đi được. Họ cũng không ăn năn những tội giết người, tà thuật, gian dâm, trộm cướp của mình” (20–21).

Chúng ta là những người biết chân lý được Kinh Thánh báo trước việc sẽ xảy ra. Mục đích của sự khải thị là nhắc chúng ta phải biết sống cách xứng đáng để thoát khỏi cơn đại nạn mà người không tin Chúa cũng như những tín hữu yếu đuối trong tâm linh, ngụp lặn trong tội lỗi, sẽ phải chịu. Đại mệnh lệnh của Đức Chúa Jesus là hãy truyền giáo và đào tạo người chưa tin thành môn đồ của Ngài để họ được thoát khỏi hồ lửa hình phạt đời đời dành cho ma quỷ và kẻ phạm tội.

TheoDoiTanThe39.docx

Rev. Dr. CTB