Quan Xét, bài 06
Quan Xét 5:1-31
Sau khi đánh bại và tiêu diệt đạo quân hùng mạnh của Jabin, bà Deborah sáng tác một bài ca chiến thắng để hát mừng. Giống như Môi-se ngày xưa sáng tác bài hát ca ngợi Đức Chúa Trời vì Ngài đã giải cứu Israel khỏi tay của quân Ai-cập, đem họ vượt Biển Đỏ một cách an toàn, nhưng nhấn chìm toàn thể đạo quân Ai-cập đuổi theo mong bắt Israel trở lại thân phận nô lệ (Xuất Ai-cập 15).
Bà Deborah là một nữ tiên tri nên bà có khả năng sáng tác một bài ca; bởi vì thời đó người có ơn tiên tri cũng được ban cho khả năng làm thơ trở thành bài ca có vần điệu.
Bà Deborah hát bài ca do bà sáng tác, có sự phụ hoạ của Barak (1), người chỉ huy trưởng quân đội Israel đánh bại đạo quân người Canaan của Jabin. Lời đầu tiên của bài hát là ca ngợi Đức Chúa Trời, vì Ngài đã đem các thủ lãnh Israel cầm quân ra trận và dân chúng thì tình nguyện hi sinh (2).
Đức Chúa Trời được ca ngợi vì Ngài đã thúc giục những người lãnh đạo và dân chúng Israel thực hiện nhiệm vụ của họ.
Vì lúc bấy giờ ở Israel không có vua, cũng chẳng có các quan trưởng, nên những ông vua và quan trưởng các dân tộc đồng minh của Jabin là những người mà bà Deborah bảo họ lắng tai nghe bà ca ngợi quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời (3).
Seir với Edom là một chỗ, vùng đất sản nghiệp mà Chúa ban cho dòng dõi của Esau nằm bên ngoài xứ Canaan. Những lời nầy có ý nhắc lại chuyện Đức Chúa Trời dẫn Israel vào chiếm xứ Canaan, nhưng cũng ca ngợi việc Ngài làm khi quân của Sisera tiến đến tấn công quân Israel ở núi Tabor, thì sấm chớp và mưa đá đổ xuống tạt thẳng vào mặt quân đội của Sisera (4).
Núi non còn bị tan chảy trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của dân Israel, thì có ai đứng nổi trước mặt Đấng từng ngự trên núi Sinaii (5).
Shamgar, con của Anath, đã từng làm quan xét trước Deborah, nhưng không bảo vệ nổi dân Israel trước sự xâm lấn của người Philistine và Canaan; cho nên “những đường cái bị bỏ hoang, khách bộ hành lần theo các lối quanh co, các làng mạc Israel bị bỏ hoang” (6-7a). Cho đến khi Deborah được Đức Chúa Trời cho trổi dậy làm quan xét như một người mẹ trong Israel (7b).
Mỗi lần Israel lìa bỏ Đức Chúa Trời, rồi chọn một thần mới cho họ “thì chiến tranh đến trước cổng thành.” Trong khi đó dù dân đông đến bốn chục ngàn, họ chẳng tìm đâu ra khiên hay giáo để chiến đấu (8).
Bà Deborah nói lên sự ngưỡng mộ đối với các vị chỉ huy trong hai chi tộc Nép-ta-li và Sa-bu-lôn, cùng những chiến sĩ của hai chi tộc đó sẵn sàng nhận lãnh nhiệm vụ chiến đấu hiểm nguy vì lợi ích của dân tộc họ (9). Bà ngợi khen Chúa về điều đó.
Giới người giàu sang cỡi lừa lông trắng, ngồi trên yên bọc nhung, cùng thường dân đi bộ hãy cùng nhau hát mừng. Vì khi còn bị áp bức, người chăn chiên và đàn bà đi múc nước bị đám cung thủ của kẻ thù quấy nhiễu. Bây giờ con dân Chúa tự do đi lại mừng chiến thắng (10-11).
Deborah và Barak nhắc nhở nhau phải tỉnh thức để hát một bài ca (12). Câu (13) trong tiếng Hebrew thì ý nghĩa không rõ ràng vì được viết ở dạng thi ca; cho nên, các bản dịch rất khác nhau.
Bản tiếng Việt của câu 14 rất dễ hiểu lầm; vì lãnh thổ của Ép-ra-im là vùng cư trú của Amalek bị Ép-ra-im chiếm lấy và tiêu diệt họ. Benjamin và hai con của Joseph là bà con gần gũi với nhau. Machir là con trai duy nhất của Manasseh, dòng dõi của ông lãnh đạo chi tộc Manasseh. Còn những người cầm gậy chỉ huy thuộc về chi tộc Sa-bu-lôn (14).
“Các thủ lĩnh Issachar đều theo Deborah; Issachar thế nào Barak thế ấy. Họ xông vào thung lũng. Nhưng con cháu Reuben còn do dự trong lòng” (15). Chi tộc Issachar lúc bấy giờ chưa phải là một lực lượng danh tiếng, vì lãnh thổ họ chưa ổn định. Deborah thì không thuộc Issachar, mà thuộc về chi tộc Ép-ra-im. Chi tộc Reuben bị quở trách vì ngần ngại, chần chừ không dám tham gia chiến trận (16).
Có thể hiểu rằng trong bài ca của bà Deborah, bà nhắc tên các chi tộc không tham gia vào trận đánh với quân của Sisera. Chúng ta không biết lúc ấy các chi tộc khác có nghe tiếng kèn tù-và của Barak thổi trên vùng núi Ép-ra-im hay không?
Mà lãnh thổ của các chi tộc thì rộng, nhất là những người thuộc chi tộc Gad và nửa chi tộc Manasseh ở vùng Galaát, cùng với chi tộc Reuben ở bên kia sông Jordan không làm sao nghe được tiếng gọi chiến tranh cả (17).
Nếu các sứ giả của Deborah và Barak đã kêu gọi hai chi tộc Đan và Asher mà họ không tham gia vì lười biếng hay sợ hãi, thì lời trách móc là chính đáng. Nhưng nếu họ ở xa trong một thời đại thông tin bằng sứ giả đi bộ, thì lời trách không thể áp dụng được.
Sa-bu-lôn ở ngay chỗ của Barak, Nép-ta-li cũng vậy. Họ xứng đáng được tuyên dương công trạng vì đã xả thân chiến đấu (18).
“Các vua kéo đến, họ ra nghênh chiến; các vua Canaan tấn công ở Taanach bên dòng nước Megiddo; nhưng chẳng cướp được tiền bạc của chúng tôi!” (19). Đây là các vua chư hầu của Jabin kéo đến tấn công quân Israel của Barak và Deborah. Nhưng vì bị thua tan tác nên chẳng kiếm được chiến lợi phẩm nào.
Vì Đức Chúa Trời giáng mưa đá nên các tầng trời cũng tham gia chiến trận (20).
Ngôi sao tượng trưng cho các thiên sứ điều khiển cơn giông tố quật vào mặt quân của Sisera. Sông Kishon được gọi là dòng thác vì trận chiến xảy ra trong mùa đông hay mùa xuân, lúc nước chảy mạnh, còn mùa hè thì nước cạn; vì dòng nước cuốn trôi quân thù, thì Deborah dù là đàn bà vẫn mạnh mẽ dẫm đạp lên kẻ địch (21).
Theo nguyên văn thì tiếng vó ngựa dồn dập của những con chiến mã phi nước đại (22), là cảnh chạy trốn của quân thù. Ngày nay không ai tìm ra Meroz là địa danh của nơi nào. Chỉ biết là dân cư ở đó không chận đường chạy trốn của quân Sisera (23).
Phước được chúc cho Jael, vợ của Heber người Kê-nít, dân du mục sống trong lều trại (24). Các câu hát tiếp theo kể chuyện Sisera vào trốn trong lều của Jael. Ông ta xin nước uống vì khát, nhưng được Jael đãi sữa chua. Ông ta ngủ mê và bị Jael giết bằng cây cọc lều đóng xuyên màng tang (25-27).
Bà Deborah chuyển cảnh trong bài ca, tưởng tượng bà mẹ của Sisera nhìn qua cửa sổ ngóng đợi con mình về. Vì bà mẹ tin rằng quân đội của Sisera sẽ nhanh chóng đánh bại quân địch, chiếm chiến lợi phẩm và chia phần cho quân lính dưới quyền.
Bà thét lên vì Sisera đi lâu hơn bình thường, vì đâu có sự trễ nải nầy? (28). Rồi các nàng hầu khôn ngoan lên tiếng trấn an, khiến bà mẹ cũng nhủ thầm: Họ trễ vì chiếm nhiều chiến lợi phẩm và phải dành thì giờ phân chia cho nhau.
Đàn ông thì bị giết, còn đàn bà bị bắt về làm nô lệ cho phía thắng trận. Bà mẹ cứ tưởng tượng vì đâu biết con mình đã bị giết chết (29-30).
“Lạy Đức Giê-hô-va, trông cho mọi kẻ thù của Ngài đều bị tiêu diệt như vậy. Còn những người yêu kính Ngài sẽ giống như mặt trời mọc lên rực rỡ” (31).
Đây là những lời kết bài ca của Deborah, người nữ tiên tri tham gia chiến trận; nó tương phản với giọng điệu hăng say trong những câu trước của bài ca.
Vì bà chúc những người yêu kính Đức Chúa Trời sẽ được nhân lãnh vinh quang giống như mặt trời mọc lên rực rỡ.
Câu cuối của đoạn nầy không nằm trong bài ca, chỉ nói rằng sau chiến thắng vẻ vang đó thì xứ sở Israel được hoà bình trong bốn mươi năm (31b).
Chúng ta học được tinh thần ca ngợi Đức Chúa Trời của người hết lòng tin cậy Ngài và được chiến thắng. Tâm tình ấy phải thấm sâu trong lòng của mọi con cái Chúa ngày nay.
QuanXet06.docx
Rev. Dr. CTB