Thời Tận Thế

Khải Huyền 1:12-20

Nhiều người vẫn thắc mắc về ý nghĩa của 7 Hội-thánh, và tại sao Chúa chỉ nhắc nhở 7 Hội Thánh trong lúc đang có nhiều Hội Thánh khác vào thời ấy, nhất là hai Hội Thánh rất nổi danh là Giêrusalem và Antiốt?  Vòng tròn thường tượng trưng cho chu kỳ. Vị trí địa dư của 7 Hội Thánh được nêu tên tạo thành một vòng hình bầu dục.  Sự kiện nầy rõ ràng có một ý nghĩa đặc biệt nào đó mà Chúa muốn con dân Ngài phải  hiểu khi họ đọc sách Khải Huyền.  Có nhiều lối suy đoán.  Trước hết theo nghĩa đen thì có 7 hội chúng ở bảy thành phố đó; thứ nhì, bảy Hội Thánh nầy tiêu biểu cho bảy loại Hội Thánh trong suốt thời đại Hội-Thánh (Church Age) từ lúc được khai sinh cho đến khi chấm dứt vai trò của Hội-Thánh trên đất. Ví dụ có Hội thánh nóng cháy như Êphêsô, có Hội Thánh hâm hẩm nhưng đã chết như Laođixê, hoặc có giáo hội đầy lễ nghi nhưng chẳng khác ngoại giáo là bao, hay có Hội Thánh chỉ có hình thức khô cứng chẳng chút sinh khí; thứ ba, sách Khải Thị nói tiên tri về những việc sẽ đến.  Có lẽ ý nghĩa của vị trí các Hội Thánh nằm trên một vòng tròn là Chúa không muốn một Hội Thánh ở địa phương nào có thẩm quyền bề trên đối với Hội Thánh ở địa phương khác. 

Ngày nay, khi nhìn lại lịch sử của Hội Thánh thì bảy tình trạng của 7 Hội Thánh được nói ở đây hoàn toàn ăn khớp với bảy giai đoạn của Hội Thánh chung được phân chia như sau: Êphêsô là tình trạng của Hội-thánh ở thế kỷ thứ nhất AD; Simiệcnơ tiêu biểu cho Hội Thánh ở thế kỷ 2 và 3; Bẹcgăm là giai đoạn từ năm 312 AD tới 590 AD; Thiatirơ đại diện thời ám thế (dark age) từ năm 591 tới 1517; Sạtđe tiêu biểu cho phong trào cải cách từ 1517 tới 1750; Philađenphi nói về tình trạng của Hội Thánh truyền giáo từ 1750 tới 1905; Laođixê là tình trạng của Hội thánh từ 1906 tới trước cơn đại nạn.  Sẽ tìm thấy chi tiết của các giai đoạn nầy trong hai đoạn 2 và 3.  Trở lại việc Giăng thấy bảy chân đèn bằng vàng gợi cho người đọc nhớ lại hình ảnh các chân đèn ở gian thánh của đền thờ.  Bảy chân đèn thật ra là bảy nhánh mọc ra từ thân đèn; 3 nhánh mỗi bên đối xứng nhau và một nhánh ở giữa đỉnh.  Mỗi nhánh là một vòi dẫn dầu đỡ lấy một chén đựng tim đèn.  Cho nên bảy chân đèn đều dính vào cùng một thân cung cấp ánh sáng cho gian thánh.

Bảy chân đèn tiêu biểu cho điều mà Đức Chúa Trời muốn dân tộc Israel phải trở nên đối với thế giới.  Đó là ánh sáng của Ngài cho thế gian.  Bây giờ khi bảy chân đèn đó được áp dụng cho Hội Thánh, thì chứng tỏ ý Chúa muốn Hội Thánh thi hành nhiệm vụ của mình giữa thế gian như Đức Chúa Giêxu đã phán “Các ngươi là sự sáng của thế gian” (Math.5:14). Thật vậy, kể từ ngày Hội Thánh được thành lập, thế giới đã được soi sáng và dần dần thoát khỏi tình trạng tăm tối dã man.  Lịch sử cho thấy rằng khi Hội Thánh lãng quên hoặc lơ là nhiệm vụ nầy ở xã hội nào thì xã hội ấy lại rơi vào tội lỗi hắc ám và hỗn loạn.  Thời ám thế, lịch sử cận đại, và thời nay đều chứng minh chân lý ấy.  Các câu 13-16 mô tả hình dạng Đức Chúa Giêxu đang bước đi giữa các chân đèn.  Đây là chỗ duy nhất trong Tân Ước mô tả rõ hình dạng của Chúa. Như câu 20 cho biết bảy chân đèn tức là bảy Hội Thánh, thì việc Đức Chúa Giêxu đi giữa các chân đèn có nghĩa là Ngài luôn ở giữa Hội Thánh trong suốt lịch sử như lời Ngài hứa: “nơi nào có hai ba người nhân danh Ta nhóm nhau lại, thì Ta ở giữa họ” (Math.18:20).

Áo dài là biểu tượng về chức tế lễ thượng phẩm và quan án.  Đối với tín hữu thì Đức Chúa Giêxu là thầy tế lễ thượng phẩm làm công việc cầu thay lên Đức Chúa Trời để dân sự được tha thứ và ban phước; nhưng đối với người không tin thì Ngài sẽ là quan án xét xử họ. Như vậy Ngài là nguồn phước vô tận của chúng ta, cũng là sự định tội cho người từ chối Ngài.  Đai vàng ngang ngực là biểu tượng của Vua.  Đức Chúa Giêxu là Vua trên mọi vua.  Tóc trắng tinh như tuyết nói về tri thức vô hạn và tư tưởng thanh khiết.  Mắt như ngọn lửa nhìn thấu và dò xét thấy rõ nơi sâu kín nhất của tư tưởng.  Chân như đồng sáng đã luyện trong lửa là biểu tượng về sự phán xét. Vào thời Cựu Ước, mọi khí dụng tại bàn thờ dâng của lễ thiêu đều được làm bằng đồng (sinh tế thiêu nơi bàn thờ là biểu tượng về hình phạt của luật pháp Đức Chúa Trời đối với tội lỗi).  Tiếng như tiếng nước lớn là tiếng nói sáng tạo của Đấng Tạo Hoá.

Giăng thấy Chúa cầm trong tay bảy ngôi sao là bảy ‘thiên sứ’ của bảy Hội Thánh ấy (c.20). Chữ thiên sứ trong tiếng Hylạp được dịch là “sứ giả,” thường thường nói về mục sư.  Như vậy ai được gọi vào chức vụ mục sư thì được ở gần Chúa biết bao.  Trong thực tế, ít người nhận thức rõ hạnh phúc tột bậc đó, nên vẫn thường than thở và cảm thấy mình cô đơn.  Đương nhiên là cũng có mục sư không được gọi vào chức vụ, mà do giáo hội phong chức, hoặc tự phong hoặc tự dấn thân.  Đời sống, thánh vụ và quan điểm thần học của vị mục sư sẽ biểu lộ có phải là người được Chúa kêu gọi hay không.  Nếu biết rõ ấy là người được Chúa kêu gọi thì hãy hết sức cẩn thận về việc đối xử hoặc phê phán người đó; không có nghĩa là tín hữu không được góp ý hoặc phê bình xây dựng, nhưng phải nâng đỡ và góp ý xây dựng khi thấy mục sư có điều chi sai lầm.

Sách Khải Huyền là một nguồn tài liệu quan trọng để nghiên cứu về các thiên sứ và thánh vụ của họ. Cựu ước nói nhiều về các thiên sứ, nhưng ngày nay nhiều người ở một số giáo hội không tin các thiên sứ hiện hữu; hoặc nếu có thì cho rằng họ đang phục vụ Đức Chúa Trời ở thiên đàng, không can thiệp chi vào đời sống con cái Chúa ở thế gian.  Hai chữ thiên sứ và mục sư khác nhau hẳn.  Tính chất chung của hai chữ nầy là làm sứ giả.  Sách Khải Huyền đề cập tới các thiên sứ 55 lần; vì vậy, là các chi tiết để người đọc suy gẫm về những thiên sứ của Đức Chúa Trời.

Ở đây Giăng thấy hình ảnh thật của Đức Chúa Giêxu khi chúng ta sẽ thấy Ngài lúc Ngài đến tiếp rước chúng ta.  Mặt Ngài sáng như mặt trời khi soi sáng hết sức có nghĩa là sức sống dư dật tuôn tràn và vinh quang chói lọi đem sự sống đến và xua đuổi hết bóng tối tăm.  Một thanh gươm hai lưỡi sắc bén ở miệng Ngài là biểu tượng của Lời Đức Chúa Trờilà lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tuỷ, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng” (Hêb.4:12).  Ai chịu tiếp nhận lời sống và linh nghiệm ấy thì được ích lợi, vì lời Chúa đem đến sự cứu rỗi, chữa lành tâm linh và tiêu trừ bệnh tật. Giăng nói ở câu 17 rằng vừa thấy Ngài thì ông ngã xuống dưới chân Ngài và trong người không còn sức lực nữa, như người chết vậy.  Đức Chúa Giêxu đã cúi xuống trấn an Giăng rằng: “Ta là Giêxu, là Đức Chúa Trời. Ta đang cầm chìa khoá của sự chết và âm phủ.” Hãy để ý rằng Chúa không phán với Giăng bằng giọng êm dịu nhỏ nhẹ, nhưng tiếng Ngài ầm ầm như tiếng của dòng thác lớn đang chảy.

Hai câu 19 và 20bí quyết mà Đức Chúa Giêxu giải nghĩa cho Giăng biết cách hiểu sách Khải Huyền.  Đọc hai câu ấy, người đọc sẽ hiểu đây là chìa khoá để biết bố cục của sách tiên tri nầy.  Chúa bảo Giăng hãy viết về ba thời kỳ: những gì đã thấy tương ứng với đoạn 1; nay hiện có nói về các sứ điệp gửi cho bảy Hội Thánh ở đoạn 2 và 3, và sau sẽ đến tức là từ đoạn 4 cho đến hết sách.  Chúa cũng cho biết ý nghĩa mầu nhiệm của bảy ngôi sao và bảy chân đèn vàng tức là bảy loại Hội Thánh, bảy hạng mục sư, và đặc điểm của bảy giai đoạn lịch sử Hội Thánh từ lúc ấy cho đến ngày được cất lên thiên cung gặp lại Ngài.

Muốn hiểu sách Khải Huyền, chúng ta phải dựa trên sự giải nghĩa của Đức Chúa Giêxu về ý nghĩa mầu nhiệm của bảy chân đèn vàng và bảy ngôi sao, cùng sự phân chia ba thời kỳ: đã thấy, hiện có, và sau sẽ đến, là bố cục của sách.  Nhờ đó nắm vững các diễn tiến của lời tiên tri theo từng giai đoạn lịch sử.  Chữ sau sẽ đến ở đây trong tiếng Hylạp là meta tauta, nghĩa là sau những việc nầy.  Từ đoạn 4 tới hết 22, Giăng được thấy những sự kiện về tương lai, những điều diễn ra sau khi Hội Thánh đã hoàn thành sứ mạng trên đất và được đem đi.  Học sách Khải Huyền giúp con dân Chúa sự bình an vững chắc trong lòng, sự khôn ngoan và phước ơn từ trời được hứa ban cho những ai đọc, nghe, và giữ theo sách nầy.  A-men.

KhaiHuyen03.doc

Rev. Dr. CTB