Làm Người Gieo Giống, 05
2Các Vua 17:32–33
“Chúng kính sợ Đức Giê-hô-va, nhưng lại chọn người của chúng lập làm thầy tế lễ tại các nơi cao; các thầy tế lễ ấy vì chúng mà dâng tế lễ trong các đền miếu ở những nơi cao đó. Các dân tộc ấy kính sợ Đức Giê-hô-va, nhưng cũng phục vụ các thần riêng của mình theo thói tục vốn có của dân tộc chúng trước khi bị lưu đày.“
Nhược điểm của người Việt là hay đả phá tôn giáo mà mình không tin; từ đó gây ra tranh chấp dẫn tới thù oán. Văn hóa và phong tục của các dân tộc đều thành hình từ tín ngưỡng của đại chúng trong dân tộc ấy; cho nên, nhiều phong tục của người Việt thành hình từ Khổng giáo, Lão giáo, và Phật giáo từ bên Tàu truyền sang trong suốt cả ngàn năm bị Bắc thuộc. Nhưng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và các tôn giáo của người Tàu chỉ phổ cập ở vùng đồng bằng. Khoảng hơn 2000 năm trước, Bắc Việt có tên là Giao-châu và khi ấy chưa trở thành một vương quốc. Các tộc người của xứ Giao Châu đều thờ đa thần. Người ta thờ thần núi, thần sông và đủ thứ thần khác, gọi là bái vật giáo. Ảnh hưởng ấy vẫn còn tới ngày nay trong các sắc tộc thiểu số ở Miền Bắc Việt Nam.
Vì thế, đạo của Chúa rất dễ được người thiểu số tiếp nhận; kể cả các sắc tộc thiểu số miền núi thuộc dãy Trường Sơn và Tây Nguyên lan xuống tới Miền Đông Nam Phần. Trái lại, người Kinh rất khó tiếp nhận một niềm tin dạy nhiều điều không phù hợp với phong tục Tam giáo đồng nguyên của người Tàu. Con cái Chúa cần phải biết rõ những phong tục phổ thông nào của người Kinh xuất phát từ các tục lệ mê tín của người Tàu, để có khả năng giải thích sự khác biệt giữa các sự mê tín ấy với những gì Kinh Thánh dạy. Bởi vì trong công tác truyền giáo, điều tối kỵ là tranh luận với các tôn giáo khác về điều mình không tin. Chúng ta vừa trình bày chân lý, vừa biết cách giải thích tại sao mình không thực hành các phong tục thành hình từ lòng mê tín của Lão giáo ở bên Tàu.
Con cái Chúa cần phải hiểu biết rõ ràng về các phong tục mà mình thừa hưởng từ tổ tiên bao đời truyền lại để biết ý nghĩa và mục đích của sự áp dụng của các phong tục ấy. Sở dĩ chúng ta phải hết sức cẩn thận, vì bối cảnh văn hoá của tổ tiên, dân tộc Việt có nhiều điều trái ngược với luật thánh của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta không chịu tìm hiểu, nhắm mắt làm theo các thói tục bị Đức Chúa Trời ghê tởm, thì tương lai linh hồn và thậm chí thể xác chúng ta trong hiện tại không tươi sáng chút nào. Như dân Israel bị Chúa trừng phạt mất nước và lưu đày, vì phạm tội nghịch lại Chúa “là Đấng đã đem họ ra khỏi Ai-cập. … Họ đã thờ lạy các thần khác, sống theo thói tục của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi dân Israel” (2Các Vua 17:7–8).
Không phải phong tục tập quán nào của người Việt cũng tốt đẹp. Khi chúng ta đã biết chân lý, nhận ơn cứu rỗi, được dạy cho biết phân biệt giữa điều gì là thánh với điều gì là ô uế; đã được cứu thoát khỏi quá khứ bối cảnh đen tối, thì đừng làm những điều Chúa chẳng bao giờ cho phép. Dân Israel đã “đốt hương như các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi họ, làm những việc gian ác để chọc giận Đức Giê-hô-va. Họ thờ phượng những hình tượng mà Đức Giê-hô-va đã phán với họ: ‘Các ngươi không được thờ lạy chúng.’ … Họ bắt chước các dân tộc chung quanh, là những dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã truyền họ không được làm theo chúng” (2Vua 11–12, 15b). – Hãy nghĩ xem, có bao nhiêu niềm tin mà chúng ta thừa hưởng từ sự mê tín của người Trung-hoa?
Ví dụ vô số con dân Chúa trong người Việt theo thói quen vẫn áp dụng tử vi Trung hoa, là thứ được sáng chế từ đời Xuân Thu bên Tàu. Tử vi ấy đặt ra mười hai địa chi tương ứng với mười thiên can để đặt tên cho năm âm lịch. Người ta lấy tên con thú đã được đặt vào năm sinh của mình làm năm tuổi; vì thế người ta nhận mình là cầm tinh con thú nầy con thú nọ, quên mất mình là con người. Dân Việt vẫn thường hỏi nhau, “Anh [hay Chị] tuổi con gì?” Ý thức ấy đã ngấm sâu vào tư tưởng của biết bao tín hữu, khiến họ không nhận ra mình đang áp dụng tục lệ của ngoại giáo trong tâm linh họ. Nhiều mục sư Việt Nam cũng mù tịt chẳng biết mối hiểm nguy của tà đạo ảnh hưởng trên họ, khi chính miệng họ tự nhận một con thú trong tử vi ấy là cầm tinh của mình.
Con cái của tín hữu người Việt sinh ra ở ngoại quốc thì rất ít bị ảnh hưởng của niềm tin rất sai lạc đó. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải hết sức cẩn thận để không làm cho con cháu bị lung lạc bởi sự mê tín của ngoại giáo. Ngược lại, chúng ta phải học biết cách giải thích lý do tại sao mình không áp dụng tục lệ ấy. Trước hết, chúng ta cần phải biết lịch tử vi 12 con giáp của Trung hoa phát sinh từ bao giờ. Khái niệm ấy là một sơ đồ phân loại dựa trên nông lịch, gán một con vật và các thuộc tính đã biết của nó cho mỗi năm trong một chu kỳ 12 năm lặp lại. Ban đầu chúng đơn thuần là các khái niệm phục vụ cho toán học và thiên văn. Về sau, hệ thống địa chi được gán cho một loài vật để tăng thêm tính hình tượng và dần đi vào đời sống văn hoá dân gian, gọi là "sinh tiếu."
Ngày xưa, hệ thống tử vi mười hai con giáp ở các triều đại bên Tàu khác xa với những điều chúng ta biết ngày nay. Nó chỉ thống nhất vào thời Tây Hán khoảng 2,000 năm trước, và theo chân người Tàu truyền sang Việt Nam. Vào thời khoa học kỹ thuật tân tiến ngày nay thì 12 con giáp bị chứng tỏ là mê tín; bởi vì nó chỉ là sự tưởng tượng của người Tàu vào thời thế giới còn mê muội trước vũ trụ bao la. Giới khảo cổ đã phát giác hiện vật sinh tiếu thẻ tre có khắc chữ vào thời trước nhà Tần hoàn toàn không giống ‘sinh tiếu’ bây giờ. Vì dụ, thìn là con sâu, không phải rồng; tỵ là con hươu thay vì rắn, và Tuất là con dê thay vì chó. Vào thời nhà Tùy, có phiên bản sinh tiếu lên tới 36 con vật. Ở Triều Tiên, Thái Lan, Miến Điện, và Tây Tạng, thì sinh tiếu chỉ giống 80%.
Một số điều tin tưởng khác thuộc về phù chú, là sản phẩm của hai nguồn tôn giáo lớn của xã hội Á-đông ngày xưa, là Lão giáo và Phật giáo. Phù hay bùa được người mê tín tin là vật tốt lành, vật giữ lấy hên, lấy phước, hay là món đeo hoặc mang trong người để được phù hộ. Chú nghĩa là lời nguyền rủa, hoặc câu thần chú, hay lời chúc nguyện của phật giáo; mà người mê tín thì tin rằng những lời ấy có quyền lực vô hình trong câu chú thốt ra. Đàn bà Á Đông thường sắm nữ trang có nguồn gốc bùa may, bùa hên mà không biết. Vì dụ vòng đeo tay hay mề đay đá cẩm thạch có mục đích được may mắn và trừ tà chứ không phải chỉ là đồ trang sức. Trong khi đó đàn bà Tây Phương chẳng quan tâm gì tới mấy cái vòng đeo tay làm bằng đá cẩm thạch hết.
Khi chúng ta tiếp nhận Đức Chúa Jesus làm Chủ tâm linh và đời sống mình, thì đã được giải thoát khỏi sự chết tâm linh vì những tội lỗi và vi phạm. Trước khi tin Chúa, chúng ta “sống theo cách của thế gian, thuận theo kẻ cầm quyền chốn không trung, là thần hiện đang hành động trong những con cái không vâng phục. Tất cả chúng ta đều ở trong số nầy, đã có lần sống theo những dục vọng của xác thịt, theo đuổi các đam mê của xác thịt và tâm trí. Như vậy, theo bản chất tự nhiên, chúng ta là con của sự thịnh nộ như mọi người khác” (Êphêsô 2:2–3). Nếu chúng ta vẫn giữ các thói tục có nguồn gốc mê tín, hoặc do ma quỷ đặt ra, mà không chịu hiểu biết, có nghĩa là mình vẫn trở lại các thói tục đã được Chúa giải thoát ra khỏi xiềng xích của chúng.
Hãy nghiên cứu để biết, để không phạm các lỗi lầm, và biết giải thích cho người khác.
LamNguoigieoGiong05.docx
MS CTB