Giáng Sinh 2023a

Giăng 1:14

Ngôi Lời đã trở nên xác thể, sống giữa chúng ta, đầy ân điển và chân lý. Chúng ta đã chiêm ngưỡng vinh quang Ngài, thật là vinh quang của Con Một đến từ nơi Cha.

Đức Chúa Jesus tuyên bố lý do Ngài giáng sinh vào trần gian là để làm chứng cho chân lý (Giăng 18:37) “Phi-lát nói: Thế thì ngươi là vua sao? Đức Chúa Jêsus đáp: Chính ngươi nói Ta là vua. Đây là lý do tại sao Ta đã sinh ra, tại sao Ta đã giáng thế: Ấy là để làm chứng cho chân lý. Bất cứ ai thuộc về chân lý đều nghe tiếng Ta.” Tổng trấn Ponce Pilate kinh ngạc hỏi lại rằng: “Chân là cái gì?” Khi nghe qua, có lẽ một số tín hữu nghĩ rằng vì Pilate là người ngoại đạo quá ngô nghê nên không hiểu nổi chữ ‘chân lý.

Có bao giờ chúng ta chịu khó nghiên cứu vấn đề nầy, khi suy nghĩ về việc Đức Chúa Trời phải sai chính Ngôi Lời của Ngài vào trần gian, để người trần gian có thể hiểu ‘chân‘ của Ngài không? Nếu chân lý của Chúa là dễ hiểu, tại sao chính Ngài phải xuống trần gian để trình bày, giải thích, chứng thực? Vì chỉ cần một thiên sứ rao truyền là đủ; hoặc Đức Chúa Trời linh cảm cho một tiên tri trình bày rõ ràng qua sách vở là đủ rồi?

Tác giả thư Hêbơrơ giải thích về việc ấy trong (Hêbơrơ 1:1–2) “Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các nhà tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần, nhiều cách. Nhưng trong những ngày cuối cùng nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên làm Đấng thừa kế muôn vật; cũng qua Con ấy, Ngài đã sáng tạo vũ trụ.” Suốt cả Kinh Cựu Ước trình bày một Đức Chúa Trời thánh khiết, công nghĩa, yêu thương chân thật, thành tín qua lịch sử của dân tộc Israel.

Chính Đức Chúa Trời đã nhiều lần dùng nhiều cách phán dạy tổ tiên loài người, đặc biệt là tổ tiên dân tộc Do-thái, nhưng họ vẫn không hiểu nổi tình yêu cũng như chân lý của Ngài. Để có thể hiểu chương trình của Đức Chúa Trời cứu chuộc loài người qua biến cố giáng sinh của Đức Chúa Jesus Christ, chúng ta phải lược qua lịch sử của dân tộc ấy từ thời tổ phụ Abraham của họ cho tới ngày Con Trời giáng sinh, và cách thức Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu thương của Ngài qua lịch sử Ngài đối xử với dân tộc mà Ngài đã chọn.

Những gì về Đức Chúa Trời mà mắt trần không thấy được, tức là quyền năng đời đời và thần tính của Ngài, thì ngay từ buổi sáng thế người ta đã nhận thức rõ ràng khi quan sát các tạo vật của Ngài; cho nên họ không thể bào chữa được” (Rôma 1:20). Thế nhưng càng văn minh tiến bộ chừng nào, loài người càng tìm cách bác bỏ những bằng chứng rành rành trong thiên nhiên về sự hiện hữu và quyền năng sáng tạo của Đức Chúa Trời để thoả mãn tánh kiêu căng của họ.

Khoảng 4200 năm trước, Đức Chúa Trời đã tìm Abram, một người có đức tin trong cả thiên hạ, gọi ông rời quê hương bị ô uế bởi đầy dẫy thần tượng, để từ ông Ngài lập thành một dân tộc mà Ngài có thể bày tỏ bản thể của Ngài cho họ. Bởi đức tin, Abram được đổi tên thành Abraham, ông truyền đức tin ấy lại cho con trai là Isaac rồi cháu nội là Jacob, dân được tuyển chọn của Đức Chúa Trời mà Ngài đặt tên là Israel đã thành hình từ gia quyến của Jacob sinh sôi nẩy nở trong thời gian kiều ngụ ở Ai-cập.

Bàn tay sắp xếp thần hựu kỳ diệu của Chúa trong hơn 400 năm đã khiến một gia đình 70 người phát triển thành một dân tộc đông đến trên 2 triệu người, dù trong thân phận nô lệ họ bị hà hiếp đối xử khắc nghiệt. Đức Chúa Trời đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng quyền phép có một không hai để cứu người Israel đang bị đối xử tàn tệ ở Aicập. Ngài phán cùng Môise, là người Ngài chọn làm lãnh tụ giải thoát dân Israel rằng, Ngài đã thấy cảnh khổ cực của Israel và sẽ giải cứu họ (Xuất 3:7–8) “Đức Giê-hô-va phán: Ta đã thấy rõ nỗi khốn khổ của dân Ta tại Ai Cập và đã nghe thấu tiếng họ kêu than vì các đốc công. Phải, Ta biết được nỗi đau đớn của họ. Ta ngự xuống để giải cứu dân nầy khỏi tay người Ai Cập, đem họ ra khỏi xứ ấy, đưa đến một vùng đất tốt đẹp và rộng rãi, đượm sữa và mật.’

Chúa cũng ban sự che chở bằng trụ mây dẫn dắt ban ngày, trụ lửa soi sáng ban đêm, ban lương thực là bánh mana, và làm cho nước chảy ra từ hòn đá, nuôi nấng họ suốt bốn mươi năm hành trình trong hoang mạc, thậm chí y phục cũng không cũ mòn (Phục Truyền 8:4) “Suốt bốn mươi năm nay áo quần anh em không sờn rách, chân anh em chẳng sưng phù.

Lời Chúa chép rằng “hễ khi dân Ngài bị khốn khổ, chính Ngài cũng khốn khổ và thiên sứ trước mặt Ngài đã cứu họ” (Êsai 63:9). Tuy vậy, chính dân tộc được ơn ấy cũng chẳng nhận ra tình yêu của Ngài: “Nhưng họ đã nổi loạn, và làm buồn Thánh Linh của Ngài” (Êsai 63:10). Cứ qua một thế hệ phản nghịch, dân Israel lại bị lâm vào hoạn nạn khốn khổ, họ bèn kêu cầu sự cứu giúp từ Đức Chúa Trời. Ngài bèn sai một đấng giải cứu đem họ ra khỏi hoạn nạn. Việc cứ tái diễn như vậy qua nhiều thế hệ như được ghi lại (Các Quan Xét 3:7–9, 12 –15) “Dân Israel làm điều ác dưới mắt Đức Giê-hô-va, quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, phụng thờ các hình tượng Baal và Asherah. Vì vậy, Đức Giê-hô-va nổi cơn thịnh nộ với Israel, Ngài bán họ cho Cushan Rishathaim, vua Aram Naharaim. Dân Israel phải phục dịch Cushan Rishathaim trong tám năm. Dân Israel kêu cầu Đức Giê-hô-va và Đức Giê-hô-va dấy lên cho họ một vị cứu tinh là Othniel, con trai của Kenaz, em trai Caleb, và ông ấy giải cứu họ. …… 12–15 Dân Israel lại làm điều ác dưới mắt của Đức Giê-hô-va nên Đức Giê-hô-va khiến Eglon, vua Moab, trở nên cường thịnh để chống lại Israel vì họ làm điều ác dưới mắt của Đức Giê-hô-va. Vậy, Eglon liên kết với dân Ammôn và dân Amalek tiến đánh Israel và chiếm thành Cây Chà Là. Dân Israel phải phục dịch Eglon, vua Moab, trong mười tám năm. Dân Israel lại kêu cầu Đức Giê-hô-va và Đức Giê-hô-va dấy lên cho họ một vị cứu tinh là Ehud, con trai Gera, thuộc chi tộc Benjamin.

Tuy họ không hiểu nổi bản thể của Đấng đã ban tình yêu diệu kỳ như vậy, Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục bày tỏ tình yêu thương của Ngài cho một dân tộc cứng cổ qua sự chăm sóc, tha thứ, phục hồi của Ngài. Thi Thiên 103:2–4 nói về tình yêu rộng lượng ấy “Hỡi linh hồn ta, hãy chúc tụng Đức Giê-hô-va, chớ quên các ân huệ của Ngài. Chính Ngài tha thứ các tội ác ngươi, chữa lành mọi bệnh tật ngươi, cứu chuộc mạng sống ngươi khỏi chốn hư nát, lấy lòng nhân từ và thương xót mà làm vương miện đội cho ngươi.” Ngài cũng bày tỏ chương trình của Ngài dành cho họ là tình yêu (Giêrêmi 29:11) “Đức Giê-hô-va phán: Vì chính Ta biết chương trình mà Ta hoạch định cho các con; đó là chương trình bình an chứ không phải tai họa, để ban cho các con một tương lai và một hi vọng.

Khi sửa phạt dân Israel thì Ngài vẫn rất yêu thương họ (Giêrêmi 31:20b, 28) “… Mỗi lần quở trách nó, Ta vẫn còn nhớ nó lắm. Cho nên lòng Ta yêu mến nó; Ta thương xót nó vô cùng. … Như Ta đã canh chừng chúng để bứng gốc, phá sập, lật đổ, tiêu diệt và giáng họa thể nào, thì Ta cũng sẽ canh chừng chúng để xây dựng và vun trồng thể ấy, Đức Giê-hô-va phán vậy.

Đức Chúa Trời lại sai các tiên tri đem lời cảnh tỉnh kêu gọi dân sự Chúa hãy ăn năn, nhưng người ta vẫn bỏ ngoài tai mọi lời tiên tri ấy. Mặc cho những hành động chăm sóc tha thứ của Chúa bày tỏ cho họ thấy tình yêu của Ngài là bằng chứng về bản thể của Đức Chúa Trời là thể nào; nhưng chẳng những họ không nhận ra mà các thế hệ sau càng gian ác độc dữ hơn thế hệ trước; đến nỗi Chúa phải cho phép các dân tộc xa lạ đến xâm chiếm và xoá bỏ quốc gia Israel một thời hùng cường lẫy lừng; một đất nước từng được mệnh danh là dân sự của Đức Chúa Trời, rồi không còn có tên trên bản đồ thế giới nữa.

Đức Chúa Trời đã biết trước rằng dù Ngài bày tỏ tình yêu Ngài qua quyền phép, sự giải cứu khỏi hoạn nạn, sự chăm sóc âu yếm, sự tha thứ phục hồi, và biết bao lời cảnh cáo, khuyên nhủ đầy nhẫn nại, người ta vẫn không thể hiểu biết nổi một Đức Chúa Trời siêu việt, lại tìm kiếm sự bảo trợ từ các thứ thần thánh tưởng tượng. Vì vậy, trong chương trình mà Chúa đã định từ trước khi sáng thế, Ngài sai Ngôi Lời của Ngài xuống thế gian để làm chứng cho chân lý, tức là sự thật về bản thể của Đấng Chủ Tể vũ trụ. Biến cố giáng sinh của Đức Chúa Jesus Christ trước hết là mốc chia đôi giòng lịch sử thời gian. Chân lý Ngài đem đến cho loài người để họ biết Ngôi Lời chính là ân sủng miễn phí từ trời ban cho người, nhờ Ngài họ có thể được sự sống vĩnh cửu

(Giăng 3:16) “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.

(Giăng 1:12, 14). “Nhưng bất cứ ai tiếp nhận Ngài, tức là tin danh Ngài, thì Ngài ban cho họ quyền trở nên con của Đức Chúa Trời, … 14 Ngôi Lời đã trở nên xác thể, sống giữa chúng ta, đầy ân điển và chân lý. Chúng ta đã chiêm ngưỡng vinh quang Ngài, thật là vinh quang của Con Một đến từ nơi Cha.

Trong mấy câu đầu của Phúc Âm Giăng, người ta được biết Ngôi Lời, tức là tư tưởng và sự khôn ngoan, cũng là Lời Phán của chính Đấng Sáng Tạo, là sự sáng và nguồn sống của muôn loài vạn vật, đã giáng sinh làm một người trong nhân loại. Không có biến cố giáng sinh, không ai hiểu nổi Đức Chúa Trời. Khi Ngôi Lời trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta đầy ơn và lẽ thật, thì người ta bắt đầu hiểu chân lý về ân điển của Đức Chúa Trời là thể nào. Người ta bắt đầu hiểu ân điển là một sự ban cho miễn phí không đòi hỏi sự xứng đáng của người nhận. Ấy là chân lý! Ngôi Lời đã đến đem theo ân sủng nhân ái vô biên, lấy ân sủng làm cái màn che phủ trên loài người trước khi ánh sáng sự thật của thiên đàng soi rọi phơi trần tâm địa giả trá, gian xảo, đen tối, đầy dục vọng của họ.

Nếu không có ân điển ấy, chẳng ai có thể sống để nhận được sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Sự thật được vạch trần ấy là: “Ánh sáng soi trong bóng tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng” (Giăng 1:5).  Tâm linh con người không sở hữu một chút chất liệu gì có thể nhận được ánh sáng sự thật để phản chiếu cả. Chỉ có ân điển của Chúa mới có thể làm cho những tâm linh u tối nhận được chất liệu sự sống từ thiên đàng để tâm linh ấy có khả năng phản chiếu ánh sáng chân lý và được cứu khỏi số phận trầm luân. Đức Chúa Jesus đã giáng sinh để làm chứng cho chân lý; tức là Ngài đem đến sự thật về ân sủng từ Trời. Nhờ đó, loài người chúng ta được tiếp nhận chân lý.

GiángSinh2023a.docx

Rev. CTB