Hiểu Biết Các Điều Căn Bản, bài 03

Giăng 3:1–15

Trong số những người đặt lòng tin vào Đức Chúa Trời có thật và thánh khiết, nếu có ai tưởng chỉ cần tin có Chúa và dự lễ nhà thờ là đủ, chứ không biết gì về ý muốn Ngài, thì quan điểm ấy bị thiếu sót trầm trọng. Hãy tự tìm sự trả lời cho câu hỏi: “Tình trạng tâm linh của tín hữu phải thế nào mới thích hợp với chốn thiên cung hoàn toàn thánh khiết?” Vì bất cứ tín ngưỡng nào muốn được xem là chân chính đều phải có đủ bốn yếu tố: Sự thật, sự đúng đắn, sự hợp lý, và đức tin. Tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa có thật, Đức Chúa Jesus là Ngôi Lời, tức là tư tưởng, trí tuệ, và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời giáng thế làm người, chết thay cho tội lỗi của nhân loại, đã sống lại về trời, là niềm tin đúng; bởi vì các điều ấy có thật. Tuy nhiên, sự tin tưởng ấy chỉ là khởi đầu. Chúng ta còn phải biết nếu lòng mình chưa được đổi mới thì thiên đàng vẫn còn xa lắm.

Ngoài sự tin chắc vào sự thật, tín hữu còn phải biết sự đúng đắn, tức là sự chính xác, của niềm tin mình đang theo. Đức Chúa Jesus tiết lộ cho ông Nicodemus điều kiện mà dân Do thái chưa từng biết trước kia, mặc dù họ được Đức Chúa Trời ban cho lời sấm truyền mà họ phải vâng giữ, tức là luật pháp và các điều răn của Ngài. Ông Nicodemus phải kín đáo gặp Đức Chúa Jesus vào ban đêm để trình bày điều ông thắc mắc, vì Do-thái-giáo dù biết điều kiện cõi trời đòi hỏi, nhưng họ chưa thể biết những gì sẽ diễn ra cho linh hồn người sau sự chết của thân thể. Nicodemus phải hỏi Đức Chúa Jesus vì trong suốt bốn trăm năm trước khi Chúa giáng sinh, đã không có bất cứ một lời nào từ trời ban xuống cho người Do-thái, và họ chưa biết cách nào để về trời.

Ông Nicodemus nhìn biết Đức Chúa Jesus là một Đấng từ Đức Chúa Trời sai đến, vì ông theo dõi các việc làm của Ngài (3:2). Đức Chúa Jesus hiểu điều ông muốn hỏi, nên Ngài tiết lộ cho ông biết điều kiện đòi hỏi của cõi thần trên trời đối với những ai muốn được vào đó. Ấy là lòng người phải được sinh lại, gọi là sự tái sinh (3:3). Tái sinh nghĩa là tâm linh, con người bên trong, của từng cá nhân phải được biến đổi, trở thành một tâm linh mới, mà Kinh Thánh gọi là con người mới, bởi quyền năng của Đức Thánh Linh. Vì Đức Thánh Linh không ép buộc ai, cho nên, người nào muốn được mặc lấy người mới thì phải bằng lòng cởi con người cũ ra và từ bỏ nó (Êphêsô 4:22–24). Sự tiết lộ nầy khiến ông Nicodemus sửng sốt vì ông chưa hiểu rõ ý nghĩa thiêng liêng của biến cố sinh lại là gì; ông tưởng rằng người ta phải trở vào lòng mẹ để được sinh ra lần thứ hai (3:4).

Đức Chúa Jesus giải thích rằng tâm trí người phải được tẩy sạch, mà nước là biểu tượng làm chất, hay phương tiện, tẩy rửa sự dơ bẩn; còn tâm linh cũ phải bị Đức Thánh Linh trừ khử, nhường chỗ cho tâm linh mới được Ngài sinh ra thay thế cái cũ, thì mới được vào Vương quốc thiên đàng (3:5). Lý do mà thiên đàng đòi hỏi mọi người tin Chúa phải được sinh lại là vì: “Điều gì do xác thịt sinh ra là xác thịt, điều gì bởi Thánh Linh sinh ra là Linh” (3:6-7). Thiên đàng là nơi ở của các thần linh; thân xác người không thể vào cõi ấy được. Như sứ đồ Phaolô giải thích rõ “Thưa anh em, tôi muốn nói rằng, thịt và máu không thể hưởng Vương quốc Đức Chúa Trời được; sự hay hư nát không thể hưởng sự không hay hư nát được” (1Côrinhtô 15:50). Vì vậy, tâm trí hay tư tưởng loài người là sản phẩm của ý muốn xác thịt, do xác thịt sinh ra, tín đồ không thể đem nó theo vào thiên đàng; cũng không ai hủy được tư tưởng của mình, cho nên, tín hữu phải được sinh lại.

Sự đúng đắn, chính xác và thích hợp của niềm tin vào Đức Chúa Trời trong Cơ-đốc-giáo nằm ở chỗ nầy.–Sở dĩ không một tôn giáo hay tín ngưỡng nào khác có thể cứu vớt được loài người là vì thần của họ không phải là thần, hoặc không có thật. Kế đến, các thứ lý luận và phương pháp họ theo đuổi không đúng, không chính xác, và không thích hợp vì không thể áp dụng được. Chưa có người nào thực hiện lời dạy từ các giáo chủ của họ mà thành công, tất cả đều thất bại; bởi vì sự không thật thì không thể đúng. Những ai xem xét hai yếu tố đầu tiên của bất cứ tôn giáo nào là sự có thật, sự đúng đắn, chính xác, và thích hợp, thì thấy các tôn giáo của loài người đều thất bại.

Không phải chỉ một mình ông Nicodemus không biết phải làm gì để được sinh lại, vô số tín hữu Tin Lành ngày nay, mặc dù đọc Kinh Thánh, cũng chẳng biết luôn. Nhất là những người sinh ra trong gia đình đã theo đạo sẵn rồi. Biết sự hợp lý, có thật, và đúng của niềm tin mình theo mà không biết cách nào để áp dụng, thì chỉ hi vọng kiểu mơ hồ. Một số người trích dẫn câu nói của Đức Chúa Jesus để biện minh cho sự bất năng của họ: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, người nghe tiếng gió, nhưng không biết gió đến từ đâu và đi đâu. Người nào sinh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy” (3:8). Vì khi ông Nicodemus nghe xong thì không biết phải làm sao cho điều đó xảy ra (3:9). Chúng ta phải chịu suy gẫm thì mới hiểu lời Đức Chúa Jesus nói ở câu nầy không phải Ngài giải thích về cách để nhận được sự sinh lại, mà là dấu hiệu và tiến trình của sự sinh lại.

Khi một người tin Chúa được sinh lại, thì người chung quanh chỉ nhận thấy các dấu hiệu biến đổi mới mẻ trong đời sống người nầy, nhưng không ai biết nó diễn ra như thế nào hay vào lúc nào. Còn làm cách nào để được sinh lại thì phải tiếp tục đọc những lời giải nghĩa của Đức Chúa Jesus. Trong lời giải nghĩa của Ngài tới câu đó, Đức Chúa Jesus chưa nói gì về cách thức nhận lãnh sự sinh lại. Ngài cho biết rằng phải có sự tẩy sạch mọi điều ô uế trước đã, rồi nhờ Đức Thánh Linh hành động trong lòng để đổi mới, thì đó là sự sinh lại. Cho nên, mặc dù ông Nicodemus là giáo sư dạy luật pháp của Do-thái-giáo cho dân Judah, ông nghe mà chưa hiểu nổi vì chưa biết cách áp dụng thế nào để được Đức Thánh Linh sinh lại. Ông hiểu ý nghĩa của nước là tẩy sạch, nhưng sự vận hành của Thánh Linh trong lòng thì ông thật chưa hiểu, vì ông chỉ biết lễ nghi của luật Môise.

Đức Chúa Jesus trách sự chậm hiểu của ông và sự vô tín của dân Judah, vì họ không tin những điều thuộc về thế gian mà Ngài giải thích, thì không thể tin những điều thuộc về trời (3:10-12). Nghe với hiểu để tin là hai điều khác nhau. Nước thuộc về đất; Thánh Linh thuộc về trời. Người ta nghĩ rằng nước có thể dùng làm cho sạch những sự dơ bẩn từ bên ngoài dính vào thân thể người. Chưa ai tin nước có thể làm sạch sự dơ bẩn trong tâm trí. Nhưng luật pháp của Đức Chúa Trời quy định nước được dùng làm biểu tượng cho các nghi lễ tẩy sạch (Xuất Ai cập 40:30–32; Lêvi 8:5–6). Nếu nước là chất liệu trên đất ở thế gian được thiên đàng dùng để tượng trưng cho sự tẩy rửa trong lòng, mặc dù nước chẳng thể chạm gì tới tâm trí; con dân Chúa phải tin ý nghĩa thiêng liêng về khả năng tẩy rửa bề trong của biểu tượng nước ở thế gian, thì mới có thể tin những việc liên quan tới cõi trời.

Đức Chúa Jesus nói tiếp về hình con rắn bằng đồng do Đức Chúa Trời bảo Môise làm và treo trên đầu cây sào, để những người Israel bị rắn lửa cắn tin lời Môise, nhìn lên con rắn thì được sống, không bị nọc rắn làm cho chết (Dân số 21:6–9); Ngài nói rằng Ngài cũng phải bị treo lên như vậy, để ai tin đến Ngài, Đấng bị treo lên cây gỗ vì tội lỗi của thế gian, đều được sự sống đời đời (3:13–15). Đây là phương cách để người tin được sinh lại. Không phải chỉ tin Đức Chúa Jesus là Ngôi Lời đã đến thế gian là đủ được hưởng sự sống đời đời. Tin Ngài tức là tin rằng Ngài đã vì tội lỗi của nhân loại mà chịu chết thay cho mọi người, thì người tin sẽ được thấy và vào Vương quốc thiên đàng, Vì thấy và vào Vương quốc Đức Chúa Trời với được sống đời đời là đồng nghĩa với hai cách diễn đạt khác nhau. Có vào được Vương quốc Chúa mới có thể sống đời đời, hoặc sống đời đời nghĩa là được vào Vương quốc Ngài và không bị trải qua sự chết thứ hai của linh hồn bị trừng phạt.

Việc tín hữu tin Đức Chúa Jesus đã chết thay cho hình phạt về tội lỗi mà đáng ra họ phải chịu, để tâm linh họ được sinh lại, là sự đúng đắn và chính xác của niềm tin chúng ta. Vì vậy, chúng ta vững lòng tin vào phương cách Đức Chúa Trời dùng để cứu vớt chúng ta. Vì phương cách ấy rất thật và hoàn toàn đúng đắn. Cho nên, bất cứ ai tin Chúa đều phải được sinh lại.

HieuBietCacDieuCanBan03.docx

Rev. Dr. CTB