Quan Xét, bài 19

Quan Xét 19-20

Sau khi các chi tộc Israel, nhờ sự giúp sức của Đức Chúa Trời, đánh đuổi hầu hết người bản địa đi nơi khác, hoặc tiêu diệt họ, và đã được ở yên trong đất mình rồi, thì các thế hệ biết kính sợ Đức Chúa Trời lần lượt qua đời, trong xứ lại không có người lãnh đạo; cho nên, các chi tộc Israel ở tách biệt nhau, không còn biết đạo đức là gì nữa.

Thời ấy, tục đa thê là tình trạng phổ biến trong xã hội. Người Lêvi dù giữ chức vụ thánh vẫn cưới nhiều vợ (1). Người Lêvi trong chuyện nầy có lẽ còn trẻ và cưới vợ bé. Người vợ lẽ giận chồng nên bỏ về nhà cha ruột. Ông chồng đi tìm vợ, năn nỉ trở lại với mình. Người cha vợ cứ cầm giữ chàng rể nhiều ngày, thất hứa nhiều lần, nên chàng rể quyết định phải về, dù trời về chiều (2-10).

Thời ấy, Jerusalem, tên cũ là Jebus, một thành của người Jebusite. Người Lêvi không muốn ngủ trong thành của dân ngoại nên cố gắng đi đến Gibeah, là một thành của chi tộc Benjamin. Mặc dù là dân Israel với nhau, nhưng không người Benjamin nào ở đó cho mấy người lỡ độ đường vào nhà mình ngủ qua đêm (11-15).

Một cụ già từ chỗ làm việc ngoài đồng về, thấy vậy, liền mời họ vào nhà mình nghỉ đêm (16-21). Trong khi họ đang ăn uống vui vẻ với nhau, thì một lũ bất lương tới đập cửa nhà, đòi ông già phải đem ông khách ra cho chúng làm chuyện đồi bại. Ông chủ nhà can ngăn gì cũng không được, nên cô vợ bé của người Lêvi bị đưa cho chúng làm nhục suốt đêm. Đến rạng đông, khi chúng đuổi cô về tới nhà ông già, thì cô chết vì kiệt lực (22-26).

Sáng sớm, người chồng thức dậy để lên đường, thấy vợ lẽ mình nằm sải dài, hai tay đặt trên ngạch cửa, gọi nàng dậy để lên đường, nhưng nàng không thể trả lời vì đã chết (27-28). Ông chồng xốc nàng lên, đặt xác nàng trên lưng lừa của mình và đi về. Về tới nhà, người chồng lấy dao chặt xác vợ, chia thành mười hai phần gửi đi khắp địa phận Israel.

Mọi chi tộc, ngoại trừ Benjamin, đều kinh hoàng, vì từ khi ra khỏi Ai-cập cho tới ngày đó, chưa bao giờ có sự việc xảy ra như thế (29-30). Trong phần nầy có nhiều bài học để chúng ta tự xét mình.

Trước hết có lẽ là người cha vợ thích có người chè chén ở nhà mình, nên cứ rủ ông rể nán lại nhiều lần. Dù cho lòng rộng rãi muốn thết đãi khách, nhưng hứa, rồi viện cớ nầy nọ để nuốt lời thì không phải là điều nên làm. Chính vì ông rể sợ ở lại sẽ bị ép ăn uống nhậu nhẹt nữa nên quyết tâm lên đường, dẫn tới tai họa.

Điều thứ nhì là người Benjamin ở Gibeah thấy người Lêvi lỡ độ đường mà không giúp cho nghỉ đêm. Hoặc là họ sợ phải tốn rơm cỏ cho mấy con lừa, hoặc là tốn kém đồ ăn cho ba người khách, hoặc là họ sợ sẽ bị dây dưa tới lũ côn đồ tới quấy rầy họ. Vì lý do gì thì lối hành xử của người Benjamin với đồng bào mình không thể biện minh được.

Điều thứ ba là trái tim nhân ái của ông già tiếp khách rất đáng khen. Thứ tư là thái độ khiếp nhược của ông chồng; dù cô thế trước lũ côn đồ, nhưng vẫn lãnh đạm khi thấy vợ nằm sải dài, thái độ thật đáng khinh.

Trước sự việc kinh khủng đó, toàn dân Israel từ Đan cho đến Beersheba, không kể Benjamin, đều tụ họp tại Mizpah. Chữ toàn dân ở đây có nghĩa là những người lãnh đạo các chi tộc, đại diện và chiến sĩ của mười hai chi tộc, kể cả Reuben và Manasser ở vùng Galaát, phía đông sông Jordan, cũng có mặt (20:1-2). Còn dân Benjamin đã nghe tin mười hai chi tộc kia nhóm nhau lại rồi.

Người Israel bảo người Lêvi, chồng của thiếu phụ bị hãm hại, thuật lại đầu đuôi câu chuyện (20:3). Nghe câu chuyện người Lêvi kể (4-7), tất cả dân Israel đều quyết định sẽ trừng trị dân trong thành Gibeah về tội ác của bọn bất lương ở đó (8-11). Họ sai sứ tới chi tộc Benjamin bảo hãy giao nộp những kẻ đồi bại ở Gibeah, để Israel “xử tử chúng, và diệt trừ điều ác khỏi Israel.” Nhưng người Benjamin không chịu vâng lời, họ cũng dàn quân chống lại anh em Israel của mình (12-14).

Trong số hai mươi sáu ngàn bảy trăm quân của Benjamin, có bảy trăm người thuận tay trái có tài dùng trành ném đá ném trúng một sợi tóc, nói về tính chính xác của tài ném đá. Sở dĩ việc thuận tay trái được nói ở đây là vì người ném đá bằng tay trái dễ hạ được người cầm gươm bằng tay mặt; vì tay trái những người thuận tay mặt phải cầm thuẫn, nên phía bên mặt không được bảo vệ, dễ bị đá ném trúng (15-16).

Lực lượng của mười hai chi tộc Israel đông tới bốn trăm ngàn quân sử dụng gươm. Họ đi lên Beth-El và cầu hỏi Chúa để biết chi tộc nào sẽ ra quân trước. Câu trả lời là Giuđa sẽ tiến đánh trước (17-18). Người Israel vẫn thường dùng Urim với Thumim, hai viên đá trắng và đen, để cầu hỏi. Nhưng trong trường hợp nầy có lẽ là mười hai lá thăm, và Giuđa bốc trúng.

Hai bên bắt đầu giao tranh tại Gibeah, nhưng hai mươi hai ngàn quân Israel bị quân Benjamin giết chết (19-21). Trước khi ra trận họ không hỏi Đức Chúa Trời rằng có nên đi đánh Benjamin hay không, cũng chẳng cầu xin Chúa giúp sức bằng sự kiêng ăn, cầu nguyện và dâng tế lễ, vì tin rằng họ có quân số đông, mạnh và có chính nghĩa về phía mình thì chắc chắn sẽ thắng trận.

Sau khi thất bại, họ khóc và tiếp tục cầu hỏi mà không thực hiện những quy định của Chúa, nên lại bị mất thêm mười tám ngàn quân (22-25). Bây giờ họ đã biết phải làm gì: Họ đến trước Rương Giao Ước của Chúa ở Beth-El, có thầy tế lễ thượng phẩm Phinehas đang phục vụ, kiêng ăn trọn ngày, dâng tế lễ thiêu và tế lễ bình an; rồi họ cầu hỏi Chúa rằng: “Chúng con phải giao chiến với chi tộc Benjamin, anh em chúng con, hay là chúng con phải dừng lại?” Chúa đáp rằng họ sẽ chiến thắng, vì Ngài sẽ phó quân Benjamin vào tay họ (26-28).

Có lẽ Israel đã sống trong sự bình an lâu ngày, nên các thầy tế lễ không còn nhớ những điều phải làm để cầu hỏi ý Chúa. Hai lần trước họ chỉ bốc thăm và nghĩ rằng mình đã làm đúng. Nhưng sau khi thất bại, họ mới nhớ lại việc phải làm.

Lần nầy thì họ đánh theo chiến thuật trá bại để nhử quân Benjamin ra xa khỏi thành, còn quân phục kích sẽ chiếm và đốt thành để quân Benjamin hết chỗ dựa khi bị phản công, và họ đã thành công khi quân Benjamin thừa thắng đuổi theo quân địch mà không biết đã bị trúng kế trá bại, bị mất hậu phương và bị vây phủ bốn bề nên bị giết gần hết (29-41), (câu 42 của bản dịch mới tiếng Việt quá sai trật, nên không dùng được). Chỉ còn sáu trăm người chạy trốn được vào hoang mạc, nơi tảng đá Rimmon, là còn sống sót (42-45).

Tuy nhiên, người đọc sẽ thắc mắc về con số: Quân Benjamin có 26,700 người. Họ bị giết trong trận thứ ba là 25,100 người. Còn sống sót ở hoang mạc 600 người; vậy, 1,000 người còn lại ở đâu?

Không phải người viết sách Các Quan Xét tính sai, nhưng vì Kinh Thánh không nói tới một ngàn người Benjamin bị tử trận trong hai trận đánh trước đó; bởi vì, để giết được hai mươi hai ngàn và mười tám ngàn quân Israel, thì Benjamin cũng bị giết chết hết 1,000 quân.

Bài học đầy đau đớn cho Benjamin là: Chỉ vì tự ái địa phương và chi tộc, bênh vực những tên tội phạm gian tà mà người Benjamin bị tiêu diệt gần hết, đến nỗi chi tộc của họ chẳng còn người đàn bà nào sống sót (46-48).

Thời nay vẫn có tình trạng giáo hội, hệ phái che giấu nhau, đến khi bị bại lộ thì thiệt hại quá nặng.

QuanXet19.docx

Rev. Dr. CTB