Theo Dõi Tận Thế, bài 62

Khải Huyền 21:2–4

Sau khi đem dân Israel ra khỏi xứ Ai-cập và rẽ Biển Đỏ cho họ đi qua rồi, Đức Chúa Trời dẫn họ tới hoang mạc chân núi Sinaii hạ trại. Trong lệnh truyền cho Môise chế tác một Đền Thánh “Họ sẽ làm cho Ta một Đền Thánh để Ta ngự giữa họ” (Xuất Ai-cập 25:8), mục đích Đức Chúa Trời bảo Môise dựng một đền tạm không phải là nơi để người ta đến đó thờ phượng Ngài; mà để Ngài có thể ngự giữa dân của Ngài. Vậy, ý tưởng trong lòng Đức Chúa Trời, về Đền Tạm hay Jerusalem mới từ trời xuống, không phải là một chỗ để thờ phượng, mà là để Ngài có thể ở với con cái của Ngài. Nhưng khi dân Israel còn ở trong hoang mạc, Chúa không thể ở giữa họ được, bởi vì tánh tình cứng cỏi, ngang ngược và hay phản nghịch của họ khiến họ dễ bị Chúa tiêu diệt.

Thời Đức Chúa Trời dựng nên loài người rồi đặt họ ở vườn Eden, thì nơi đó không có đền thờ, chỉ có hai thân vị: Đức Chúa Trời với người. Mục đích của Ngài dựng nên loài người là để có đối tượng yêu thương để Ngài ở với họ. Lúc ấy, Satan rất ghen tức căm hận sự hiện hữu của loài người. Trong lịch sử thiên đàng từ rất lâu về trước, mà loài người chúng ta không thể biết là bao giờ. Cherub Lucifer là một thiên sứ rất cao trọng về địa vị, quyền lực, và vẻ đẹp tuyệt hảo, như chép ở (Ezekiel 28:12b–13a, 14–15). Lucifer nghĩa là ánh sáng rất vinh quang, không phải một tạo vật phản chiếu ánh sáng, nhưng ánh sáng ra từ Cherub ấy. Lucifer nghĩa là Kim-tinh (Venus) ra từ hai chữ Latin: Lux: ánh sáng, và Ferre: đem đến (light-bringing, light-bearing). Có nghĩa khi còn là một cherub, Lucifer muốn đem ánh sáng đến đâu, chiếu vào nơi nào tùy ý.

Trên thiên đàng thời xưa, Lucifer chỉ đứng dưới Đức Chúa Jesus một bậc. Chúng ta không biết bao nhiêu về thế giới các thiên thần. Họ không phải là các người máy của thiên đàng. Họ có ý chí, cảm xúc, họ có thể tự lập quyết định, làm theo ý muốn riêng của họ. Họ có thể lựa chọn sự yêu thương, lựa chọn thờ kính, lựa chọn sự vâng lời, giống như loài người chúng ta vậy. Họ cũng có cách sống, sở thích riêng của từng vị. Các thiên thần không giống y như nhau theo cách tưởng tượng của chúng ta. Mỗi thiên thần đều khác nhau, mỗi vị là một thân vị.

Lucifer vốn có khả năng chúc phước hay giáng họa, vì hắn thuộc đẳng cấp thiên thần có quyền lực đó. Vị dụ vị thiên sứ đánh nhau với Jacob đã chúc phước cho ông; hay thiên sứ Gabriel có quyền phạt Zachariah bị câm một thời gian vì không tin lời của Gabriel báo tin. Lucifer được Chúa dựng nên và ban cho địa vị cao trọng đứng bên ngai Đức Chúa Trời để điều khiển cuộc thờ phượng ở thiên đàng. Ông ta thường xuyên thấy mọi thiên thần phủ phục trước ngai Đức Chúa Trời, cũng là trước mặt ông ta; vì thế, ông ta nổi lòng kiêu ngạo và toan tính chiếm ngai của Đức Chúa Trời. Lucifer bị truất khỏi ngôi vị cao trọng, bị đuổi khỏi thiên đàng, trở thành Satan.

Khi Lucifer được dựng nên, mọi uy quyền, vinh quang, vẻ đẹp rực rỡ vô song, vv., đều được ban cho. Lucifer không phải khổ công để đạt được vị thế đó, nên ông ta không biết quý báu điều mình có. Sự kiêu căng, hợm hĩnh sinh ra khi Lucifer thấy mình được tôn trọng hơn các thiên thần khác; sự kiêu căng hợm hĩnh ấy không phải là bản chất khi ông ta được tạo dựng, nó nẩy ra về sau trong ý chí tự do của một thân vị. Cho nên, ông ta đánh mất điều quý giá nhất mình đang có: được ở với Đức Chúa Trời.

Loài người chúng ta được dựng nên để thay thế chỗ của Lucifer. Vì chúng ta là những sinh vật có thể tự ý yêu mến, kính sợ và thờ phượng Chúa với lòng yêu thương chân thành. Con dân Chúa được tạo nên để giữ vai trò thờ phượng bằng tâm linh yêu thương và kính mến Chúa ở thiên đàng. Không một tạo vật nào khác được ban cho khả năng ca hát, sáng tác và bày tỏ lòng yêu thương, kính mến Đức Chúa Trời trong sự thờ phượng như loài người. Vì lý do đó, Satan rất căm hận sinh vật người do Chúa tạo nên; nhất là những người tin Đức Chúa Jesus, được sinh lại, trở thành con cái Đức Chúa Trời. Hắn tìm mọi dịp để cám dỗ khiến con cái Chúa sa bại.

Vì thế, khi dựng nên loài người, Đức Chúa Trời đặt người trong vườn Eden để học một bài căn bản: Sự vâng phục (Con cái vâng phục Chúa sẽ yêu kính, thờ phượng và mừng rỡ trong sự hiện diện của Ngài). Để thử lòng loài người, Chúa đặt cây sự sống bên cạnh cây biết điều thiện và điều ác ở giữa vườn để loài người chọn lựa. Thật là vô phúc vì loài người chọn sự không vâng lời, nên suốt lịch sử loài người trên thế giới có biết bao điều đớn đau. Đức Chúa Jesus, Ngôi Lời của Đức Chúa Trời, đã đến thế gian theo chương trình cứu chuộc của Chúa, để tạo mọi điều kiện đem loài người trở lại hầu cho Đức Chúa Trời có thể ở giữa họ; giống như khi Ngài mới dựng nên hai người và đi dạo với họ trong vườn Eden. Ngài đã hi sinh để người ta có thể trở lại trong mối tương giao thân mật với Đức Chúa Trời như thời Adam và Eva mới được dựng nên.

Khi Đức Chúa Jesus đến thế gian, cả cuộc đời của Ngài có thể tóm gọn trong sự “vâng phục Cha cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Philip 2:8; Hebrew 5:8-9). Trong mọi việc, nói hay làm, Đức Chúa Jesus chỉ làm những gì Đức Chúa Cha bảo làm. Lucifer đã thất bại, Adam đầu tiên cũng đã thất bại, Đức Chúa Jesus, Adam cuối cùng, đã thành công. Ngài hoàn thành sự vâng phục Đức Chúa Trời. Đời sống của Ngài là một gương sáng cho con cái Ngài bắt chước làm theo, vì đời sống vâng phục là có thể thực hiện được qua Con Người Jesus. Ngài vâng phục qua bản tính người, nhân tánh, không phải thần tánh. Bí quyết của điều nầy là: ‘Đầu phục’ (surrender).

Sở dĩ rất nhiều người trong chúng ta không làm được vì không chịu đầu phục hoàn toàn! Loài người chỉ có thể đầu phục tối đa là 50%, một nửa còn lại không chịu đầu phục thì gọi là “bản ngã” (self). Tinh thần không chịu đầu phục là tinh thần của Lucifer khi xưa. Phần đông các dân tộc trên thế giới, nhất là dân Á-đông, vẫn kiêu căng nghe lời xúi dại: Tự mình cứu mình; mặc dù trong lịch sử chưa ai thành công cả. Chỉ khi nào người ta nhận ra giới hạn của loài người là không thể tự vượt ra khỏi quả địa cầu để đi tìm sự sống vĩnh cửu, thì có lẽ những người ấy sẽ vâng phục Chúa.

Vào thời dân Israel ra khỏi Ai-cập, luật pháp từ Chúa ban phải khắc trên bảng đá, vì lòng họ quá cứng cỏi. Sau khi Israel bị thất bại trong cuộc thử nghiệm, Đức Chúa Trời phải dùng huyết Đức Chúa Jesus và quyền năng tái tạo của Đức Thánh Linh để luật pháp của Ngài khắc trên bảng lòng của chúng ta, để Ngài có thể ở giữa loài người. Ngày xưa, khi Đức Chúa Jesus bắt đầu thánh vụ, Satan chỉ phải đối phó với một Thần Nhân Jesus. Ngày nay, vì bất cứ người nào trở thành con cái thật của Chúa, thì Ngài ngự trong người ấy. Cho nên, Satan phải đối phó với vô số Jesus trong các con cái thật của Đức Chúa Trời. Cho nên, Thi Thiên 116:15 chép “Sự chết của các người thánh là quý báu trước mặt Đức Giêhôva.” Nếu thánh đồ qua đời yểu mệnh, đó không phải sự chết bình thường, nhưng là chuyển từ chiều kích thế giới vật chất sang một chiều kích khác của linh giới.

Đến thời cuối cùng, trái đất phải tiêu tan, vũ trụ sẽ biến mất, những người được chọn và được cứu đã được biến đổi để bản ngã bị tiêu trừ, thì Jerusalem mới từ Đức Chúa Trời giáng xuống ở giữa con dân Ngài. Người nào còn đầy bản ngã của cái tôi thì không thể ở đó. Đó là lý do người ta phải được tái sinh mới có thể thấy Vương quốc Đức Chúa Trời. (2Côrinhtô 6:16) nhắc lại lời Chúa phán: “Ta sẽ sống trong họ và đi lại giữa họ; Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ và họ sẽ làm dân Ta.” Chúa sẽ ở trong, không còn ‘ở giữa vòng’ con cái Ngài. Nhờ huyết hi sinh của Đức Chúa Jesus mà chúng ta được trở thành con dân Đức Chúa Trời, được biến đổi để Ngài ngự trong chúng ta. Mỗi chúng ta trở thành đền thờ của Đức Chúa Trời để Ngài ngự vào (Luca 17:21).

TheoDoiTanThe62.docx

Rev Dr. CTB