Thử Nghiệm Đức Tin, bài 22

1Timôthê 1:12-17

Từ ngàn xưa, sau khi loài người tản lạc khắp nơi trên mặt địa cầu, những lời truyền khẩu của tổ tiên về Đấng Tạo Hoá đã bị phôi pha qua nhiều thế hệ.

Suốt lịch sử, giữa các nhóm dân tộc nổi lên một số bộ óc thường suy nghiệm, mà người ta đặt tên là triết gia. Những người ấy đặt câu hỏi về nguồn gốc loài người từ đâu ra, sau khi chết người ta sẽ đi về đâu? Vì không ai trả lời được nên họ đi tìm lời giải đáp cho ước muốn thoát khỏi vòng tử sinh mà mọi người trên thế gian phải trải qua.

Những người ấy đều đưa ra các điều họ tìm được, nhưng chẳng có kết luận nào làm thoả mãn các câu hỏi trên. Lý do là tất cả đều suy luận từ quan điểm của những người bị giới hạn trên mặt địa cầu, chẳng thể thoát ra khỏi không gian và thời gian; tức là bị giới hạn trong cõi vật chất, chưa bao giờ tiếp xúc được với linh giới để biết được quyền năng nào tạo lập nên cõi trần gian.

Nói cách khác, từ ngàn đời trước cho đến mãi mãi về sau, không một ai có thể tự cứu ra khỏi vòng luẩn quẩn sinh, lão, bệnh, tử của loài người.

Hơn thế nữa, người ta còn phải đối diện với tội lỗi, một nan đề mà mọi người đều hoàn toàn bất lực trước sự hoành hành của nó trong mọi xã hội ở tất cả các thế hệ.

Có người tưởng rằng nếu có thể diệt được dục vọng trong lòng người thì nan đề nguồn gốc tội lỗi sẽ được giải quyết. Nhưng sự mơ ước đó chỉ là viển vông vì dục vọng là bản chất nằm sẵn trong tâm linh người, một cõi mà loài người không chạm tới được.

Người ta có khả năng trấn áp một phần nào đó của cõi hồn, tức là điều khiển được một phần nào đó của lý trí và ý chí, hoặc cảm xúc; nhưng chẳng ai điều khiển được cõi tâm linh, bởi vì chỉ Đấng đã tạo ra và ban phần linh cho loài người mới có thể chạm đến, uốn nắn và biến đổi các linh ấy.

Các triết thuyết và tôn giáo đều bị bế tắc và thúc thủ trước nan đề nầy. Nghĩa là người ta thất bại trong việc biến đổi tâm tính con người từ bản chất tà ác trở nên bản chất mới thánh thiện; đây là vấn đề khiến người ta lầm lẫn vì chưa phân biệt được sự thật giữa bản chất với hành động.

Vài hành động thiện hảo bề ngoài chỉ tạm thời che giấu được bản chất tà ác bên trong chưa được biến đổi; khi biện pháp cấm cản nó bị lơi lỏng, bản chất bùng lên khi có cơ hội. Người ta gặp trở ngại không vượt qua nổi trong việc đi tìm sự công chính, vì cả thế gian đều bị tội lỗi trói buộc.

Vậy thì, quyền lực giải thoát loài người phải đến từ bên ngoài, chứ không thể nổi lên từ bên trong, vì mọi người đều thất bại. Nghĩa là phải có một Đấng Công Chính đủ khả năng làm cho loài người được xưng công chính bằng cách xoá hết tội lỗi và giải thoát người ra khỏi quyền lực của tội lỗi.

Đức Chúa Trời, Đấng tạo nên loài người đã biết trước việc đó, nên Ngài đã chuẩn bị sẵn một chương trình cứu độ khôn ngoan và tuyệt diệu nhất; chương trình cứu độ ấy chẳng thiên thần nào biết được hay hiểu nổi, cho đến khi Ngôi Lời của Ngài giáng trần làm một người vô tội:

Ngôi Lời đã trở nên xác thể, sống giữa chúng ta, đầy ân điển và chân lý. Chúng ta đã chiêm ngưỡng vinh quang Ngài, thật là vinh quang từ Con Một đến từ nơi Cha” (Giăng 1:14).

Từ khi Đức Chúa Trời công bố cho loài người điều kiện mà thiên đàng đòi hỏi về việc tội lỗi của người phạm tội được tạm thời che lấp là phải có máu vô tội đổ ra, tức là một sinh mạng phải chết, thì mới chuộc được sinh mạng của kẻ phạm tội:

Theo luật pháp, hầu hết mọi vật đều nhờ huyết mà được tinh sạch; không đổ huyết thì không có sự tha thứ” (Hêbơrơ 9:22), mọi người đều tuyệt vọng vì đòi hỏi đó.

Bởi vì, thiên đàng đòi hỏi là huyết tinh sạch phải đổ ra; mà người đã phạm tội thì làm sao có huyết tinh sạch? Hơn nữa, đổ huyết là phải mất mạng; vậy, ai sẵn lòng chịu bị mất mạng để được tha tội và không có hi vọng gì sẽ được sống lại?

Nan đề nầy không có lời giải đáp, nên Đức Chúa Trời chỉ dẫn cho Môi-se dùng máu của bò đực, chiên đực và dê dực làm tế lễ tạm thời che lấp tội lỗi, “vì máu của bò đực và dê đực không thể cất tội lỗi đi được” (Hêbơrơ 10:4), là hình bóng về giải pháp có giá trị vĩnh viễn mà Ngài sẽ thực hiện về sau; khi Ngài sai Ngôi Lời của Ngài xuống trần gian làm một người không bị nhiễm chút tội lỗi nào. Nhờ đó huyết thánh vô tội của Con Người Jesus, là huyết có đủ quyền năng xoá sạch tội của mọi người trong nhân loại, và huyết ấy của Con Trời mới có hiệu quả vĩnh viễn trên mọi thế hệ của loài người.

Ơn cứu rỗi không phải là biện pháp chữa cháy sau khi loài người phạm tội; chương trình cứu độ nhân loại qua sự chết của Đức Chúa Jesus, Chiên Con của Đức Chúa Trời, đã được Ngài định sẵn từ trước khi sáng tạo nên vũ trụ:

“…… anh em được chuộc khỏi lối sống phù phiếm từ tổ tiên mình truyền lại, …… bởi huyết báu của Đấng Christ, như huyết của chiên con không khuyết tật, không tì vết, đã được định sẵn trước khi tạo dựng vũ trụ” (1Phierơ 1:18b-19). “Chiên Con đã bị giết từ buổi sáng thế” (Khải huyền 13:8b).

Hãy cùng nhau suy gẫm về vấn đề nầy. Loài người chúng ta đang hiện hữu trên thế gian là một sự thật. Tội lỗi hoành hành trong bất cứ xã hội nào có người là một sự thật. Không một ai trong nhân loại có thể tự giải thoát khỏi quyền lực của tội lỗi hay giải thoát người khác cũng là một sự thật. Tương lai hoàn toàn u ám của nhân loại là một sự thật.

Nếu không ai có đủ khả năng phủ nhận, chẳng thể chứng minh không có Đấng Tạo Hoá, thế giới và vũ trụ tự sinh ra, thì sự hiện hữu của Đức Chúa Trời toàn năng là một sự thật.

Chính vì sự thất bại của loài người trước sự hoành hành và ngày càng gia tăng của tội lỗi là sự thật, thì tương lai bị trừng phạt của những con người tội ác, ngang ngược, phỉ báng và chống lại Đức Chúa Trời cũng là sự thật.

Nếu Đấng Tạo Hoá vô cùng thánh khiết đã dựng nên loài người trên thế gian, mà loài người từ khước sự thánh thiện, tự do theo đuổi lạc thú của dục vọng, thì ý chí tự do lựa chọn thiện hay ác đã được ban cho mỗi người từng sống trên đất là một sự thật.

Qua bao nhiêu thế hệ tội lỗi gian ác trong nhân loại mà loài người vẫn chưa bị sự trừng phạt thánh tiêu diệt, thì đức nhân từ yêu thương của Đấng Tạo Hoá, tức là Đức Chúa Trời của Kinh Thánh, cũng là một sự thật.

Nếu không thể bác bỏ được sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, cũng không thể bác bỏ được sự nhập thể của Ngôi Lời, không thể bác bỏ nổi sự thật về Kinh Thánh là những lời Đức Chúa Trời mặc khải ý muốn của Ngài cho thế gian, thì biện pháp cứu rỗi nhân loại trong chương trình tuyệt diệu của Ngài cho thế gian, mà Kinh Thánh cho biết, là sự thật duy nhất nhân loại có thể áp dụng một cách hữu hiệu.

Sự giáng sinh, đời sống, thánh vụ, sự chết, và sự sống lại của Đức Chúa Jesus đã thật xảy ra, thì chương trình cứu rỗi loài người của Đức Chúa Trời cũng phải là một sự thật đã được Ngài thực hiện.

Nếu đã xác nhận các lời tiên tri đều ứng nghiệm không sai trật, chứng minh Kinh Thánh thật đến từ Đức Chúa Trời, thì bằng cớ ấy bảo đảm cho lời hứa về ơn cứu rỗi đã ban trên mọi người tin như Kinh Thánh cho biết, phải là sự thật mà bất cứ ai cũng có thể nhận được.

Bằng cớ cụ thể nhất về sự có thật của ơn cứu rỗi từ Đức Chúa Trời ban cho nhân loại là hễ ai thật lòng tiếp nhận ơn ấy cho mình, thì tính tình của người ấy được đổi mới một cách kỳ diệu bởi quyền phép siêu nhiên của Chúa tác động vào đời sống tâm linh của con người bề trong.

Điều đó đã được vô số bằng chứng xác nhận là sự thật, không thể chối cãi nổi, qua vô số người đang sống ở bất cứ xã hội nào, dân tộc nào, màu da nào, và chế độ chính trị nào.

Vô số người sau khi đã quá chán nản vì không thể tìm được một sự bảo đảm nào cho tương lai linh hồn mình trong cách thức tu tập của các tôn giáo khác, họ tìm hiểu ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua sự chết hi sinh chuộc tội cho loài người của Đức Chúa Jesus, rồi vui lòng tiếp nhận ơn ấy, thì đã sống đời vui mừng và hạnh phúc trong chân lý mà Kinh Thánh đã trình bày từ ngàn xưa, chứng tỏ ơn cứu rỗi là sự thật.

Nói tóm lại, khi người ta không thể tự mình tìm ra con đường giải thoát, tâm linh tuyệt vọng trước các điều kiện đòi hỏi từ thiên đàng, mà không ai trong loài người thực hiện nổi; bây giờ lại có thể thực hiện chỉ bởi sự thành tâm tin cậy và tiếp nhận ơn cứu rỗi miễn phí và hết sức dễ dàng do Đức Chúa Trời thực hiện và cống hiến, thì ơn cứu rỗi ấy là một sự thật đáng tin, đáng hết lòng tiếp nhận.

Bởi vì nếu chỉ nhờ lòng tin vào Chúa mà đạt được các sự đòi hỏi của thiên đàng, thì ơn đó chứng tỏ chương trình ấy thật sự đến từ một Đức Chúa Trời đầy lòng nhân từ và thương xót.

ThuNghiemDucTin22.docx

Rev. Dr. CTB