Thử Nghiệm Đức Tin, bài 20

Giăng 8:23–32

Tín ngưỡng hay tôn giáo dựa trên lòng tin vào một “đấng” nào đó. Bởi vì người ta tin, hoặc theo đạo, là do nghe người khác nói lại, chứ chẳng có người nào do được gặp “đấng cứu tinh” là một vị có thật rồi tin theo; cho nên, chẳng mấy ai nắm vững sự thật về điều họ tin.

Vì lý do đó, tất cả tôn giáo do loài người tạo ra đều lập niềm tin của họ trên các huyền thoại bịa đặt, không có thật; mà các huyền thoại đó bị sụp đổ hoàn toàn khi phải đối diện sự thật, hoặc phải có bằng cớ chứng minh những chuyện đó đã thật xảy ra.

Niềm tin vào một Đấng có thật là quan trọng; bởi vì người tín đồ phải chứng minh họ tin điều có thật, không phải là giả dối. Tin vào sự thật là quan trọng, vì hễ tin sai, suy nghĩ sai thì hành động cũng sai, dẫn tới hậu quả xấu và vô cùng tai hại.

Hãy nhớ lại phương châm: ‘Truyền giáo là chiến tranh’ chống các thế lực tối tăm để giải cứu những người đang ở trong gông cùm và ngục tù của chúng.

Vì vậy, vũ khí quan trọng đầu tiên do Đức Thánh Linh trang bị cho mọi con cái Chúa là Sự Thật, để chúng ta dùng tất cả sự thật làm nền tảng sức mạnh, làm sự bảo vệ vững chắc cho phần quan trọng nhất, nhưng dễ bị tổn thương nhất trong thân thể con người; cũng là phương tiện cho các thứ khí giáp khác nương tựa và triển khai, mà sứ đồ Phao-lô bảo hãy lấy chân lý làm đai lưng (Êphêsô 6:14). Đai lưng của chiến sĩ thời xưa là chỗ dùng để đeo gươm.

Tín hữu nào không nắm vững sự thật về Đức Chúa Trời và chương trình cứu rỗi của Ngài cho nhân loại, thì người ấy sẽ không thể mang gươm của Đức Thánh Linh, tức là Lời của Đức Chúa Trời; bởi vì không có phương tiện để đeo gươm bên mình.

Sự thật đầu tiên Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá đã đánh bại mọi lý thuyết vô thần, tôn giáo tà đạo (Thi-Thiên 19:1–4).

Tất cả các ngoại giáo đều phải bịa đặt đủ chuyện để chứng tỏ điều họ tin là đúng. Vì là những chuyện bịa đặt nên tất cả đều có các nhược điểm không thể khắc phục, cũng chẳng thể bảo vệ nổi khi phải đối diện với sự thật.

Mọi giáo chủ của các tôn giáo trần gian đều là loài người. Không ông nào dám tự xưng là Thiên Chúa, tức là Đấng Tạo Hoá, hay là một vị thần. Bởi vì phải có khả năng thi thố các việc siêu nhiên kỳ diệu mà không ai làm nổi, thì người ta mới tin là đến từ cõi thần.

Chỉ một điểm đó thôi, lịch sử đã vạch mặt mấy người quê mùa dốt nát, dám nhảy ra tự xưng là thần cứu nhân độ thế, nhưng lừa bịp theo kiểu dại dột của người mê tín. Chỉ có Đức Chúa Jesus, con người có thật trong lịch sử, mới chứng tỏ được Ngài đến từ cõi thần.

Ngoại giáo do loài người thành lập, không biết chút gì về cõi thần, nên cách họ tưởng tượng về thần thánh hoàn toàn sai bét. Bằng chứng là không ai biết các điều kiện đòi hỏi của cõi thần là thế nào hết?

Trong khi đó Đức Chúa Jesus có thể nói rõ ràng về điều kiện tâm linh người ta phải được Đức Thánh Linh sinh lại (Giăng 3:3) là sự thật thứ nhì. Ngài cũng nói rõ lý do: “Điều gì do xác thịt sinh ra là xác thịt, điều gì bởi Thánh Linh sinh ra là linh [hay thần]” (Giăng 3:6).

Sự giải thích nầy vượt cao quá xa hơn sự suy diễn của người muốn trở nên thiện hảo bằng cách diệt dục; bởi vì dục vọng là bản chất tự nhiên của con người nên không thể dùng ý chí trấn áp nó được.

Ý chí của từng người mạnh hay yếu cũng khác nhau; vì thế, lâu hay mau rồi cũng tới chỗ thất bại. Quyền năng biến đổi của Đức Thánh Linh có vô số bằng chứng trên vô số người, nên đó là sự thật.

Sự thật kế tiếp cho biết Đức Chúa Trời là tình yêu thương. Ngài chứng tỏ tình yêu thương ấy bằng cách gửi Ngôi Lời của Ngài, trong thân vị Đức Chúa Con, xuống trần gian làm người vô tội để có thể thế chỗ cho nhân loại mà nhận lãnh hình phạt án chết vì tội lỗi của cả loài người.

Chưa có một người nào trong nhân loại nghĩ tới điều đó; bởi vì ai cũng nhận biết mình có tội mà không biết cách nào rũ bỏ được tội của riêng mình, nói gì tới việc chịu tội thay cho người khác.

Sự giác ngộ mà phật giáo nói tới chỉ là sự tưởng tượng của ông Tất-đạt-đa Cù-đàm (Siddhartha Gautama), nghĩ rằng diệt được dục vọng là được giải thoát; cho nên, suy niệm ra điều đó sau bốn mươi chín ngày suy gẫm vào năm 35 tuổi, ông ta nghĩ rằng mình đã giác ngộ, tức là biết nguồn gốc đau khổ của con người là do không biết mọi việc là vô ngã, vô thường.

Vô ngã nghĩa là mọi sự kể cả chính mình là không có thật; vô thường là thế giới biến chuyển không ngừng, không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên, nên thế giới chẳng do ai tạo ra, tức là vô thần, cũng không có gì vĩnh hằng.

Nhưng sự thật từ Đức Chúa Trời nói rõ Ngài là tác giả của mọi vật, không ai chối cãi được. Chúng ta phải biết rõ các chân lý của Kinh Thánh để tin chắc quyển sách ấy không phải là sự sáng tác của loài người.

Kinh Thánh đánh bại mọi loại sách đạo của các tôn giáo trần gian. Kinh thánh cho biết một cách chính xác từ nhiều ngàn năm trước về những sự việc sẽ xảy ra trong dòng lịch sử thế giới, thì đều đã xảy ra không sai trật. Sự thật đó chứng minh lời Kinh Thánh là đáng tin.

Hơn nữa, chỉ Lời Chúa của Kinh Thánh mới có quyền năng biến đổi tâm tánh của vô số người từ xấu xa gian xảo trở nên thánh thiện, những chứng cớ ấy là sự thật hùng hồn không ai bác bỏ được.

Trái lại, chẳng tôn giáo nào sản sinh được những con người thánh thiện do đọc các thứ kinh kệ của họ. Người ta vẫn tiếp tục đi trong tối tăm mà không biết cách nào thoát khỏi bản ngã tội lỗi.

Sự thật về mối liên hệ tương giao thân thiết giữa con cái Chúa với chính Ngài để được Ngài hướng dẫn trong cuộc đời cũng là một đặc điểm mà chẳng tôn giáo nào có; lý do rất dễ hiểu là các giáo chủ của họ không phải là thần có thật, chỉ là người đã chết, sẽ chịu chung số phận với mọi linh hồn bị hư vong khác.

Người ta cầu nguyện là đưa ra những lời cầu xin, khẩn nài về mọi nhu cầu vừa vật chất, vừa tinh thần của họ. Sự cầu nguyện của chúng ta là trò chuyện tương giao với Đức Chúa Trời, cầu thay cho người chưa được cứu, cầu thay cho Hội Thánh và tất cả các anh chị em của mình đang có những nhu cầu khẩn thiết.

Qua mối tương giao đó, Đức Thánh Linh chỉ dẫn con dân Ngài bằng các lời tiên tri. Không tôn giáo nào khác có được đặc điểm nầy. Người ta đã kinh ngạc trước những lời tiên tri đương thời được quả quyết và trúng phong phóc. Đấng ban lời tiên tri là Chúa đang điều khiển dòng lịch sử, nên Ngài thực hiện điều Ngài đã định.

Chúng ta phải nắm vững mọi sự thật về niềm tin của mình thì mới có thể dùng chân lý thiên đàng làm đai lưng. Chẳng kẻ thù gian dối nào dám đương đầu với người đang thắt đai lưng chân lý, vì nó biết nó không có sự thật nên sẽ bị thua thảm hại.

Chân lý là thầy giáo nghiêm khắc giúp các học trò không làm điều sai trật. Khác với người tin vào các điều sai lầm, không có thật, hành động sai dẫn tới hậu quả đau đớn, chúng ta tin vì biết chắc điều mình tin là sự thật, nên làm đúng những điều mình phải làm, cho dù có đi ngược với trào lưu xã hội.

Thầy giáo chân lý không dạy điều sai trật bao giờ, ai làm theo sự dạy dỗ của thầy giáo ấy thì chắc chắn sẽ đến đích thành công mà không sợ bị thiệt hại. Tất cả những người chạy theo, tin theo và hết lòng ủng hộ các thủ đoạn lừa dối đều cắn lưỡi đau đớn mà không hiểu tại sao họ bị thất bại.

Đức Chúa Jesus đã phán một sự thật là: “Các ngươi sẽ biết chân lý, và chân lý sẽ giải phóng các ngươi” (Giăng 8:32). Nhiều người không hiểu và không giải thích nổi câu nầy, vì không lưu ý cũng không cố sức tìm hiểu để nắm vững chân lý.

Đối với người nào đã biết rõ và nắm vững các sự thật vừa nói ở trên, thì trước hết người đó được giải thoát khỏi sự hổ thẹn về niềm tin mà một số người thường mắc phải, vì họ bị hoang mang đạo của mình không biết đúng hay sai, thật hay giả.

Người biết rõ chân lý cũng được giải thoát khỏi tâm lý ngại ngùng không dám chia sẻ hoặc hãnh diện về Tin Mừng.

Đối với người chưa tin Chúa, khi sự thật nầy được trình bày cho họ biết và hiểu, thì họ được giải thoát ra khỏi ngục tù của sự tin sai, tưởng lầm, mê tín, và cuồng tín.

Sự thật là thuốc chữa bệnh vạn năng, mở mắt cho người lâu nay sai lầm, giúp cho người còn đang hoang mang, để người đó phải lập quyết định dứt khoát từ bỏ lối sống tội lỗi, hết lòng kính thờ Đấng ban chân lý và chính Ngài là chân lý.

Sự thật sẽ cởi bỏ xiềng xích trói buộc người đang phạm tội, vì khi người ta đã biết sự thật rằng thế gian tội lỗi sẽ bị trừng phạt, còn tình yêu thương bao la của Đức Chúa Trời qua huyết hi sinh của Đức Chúa Jesus có đủ quyền năng tẩy sạch mọi thứ tội ác gớm ghê của loài người, thì người quay đầu ăn năn sẽ được tự do trong ân điển Chúa.

ThuNghiemDucTin20.docx

Rev. Dr. CTB